thư mục

Thứ Hai, 26 tháng 11, 2012

Vì sao các quốc gia thất bại (P4)

...tiếp theo


10.SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG
VINH DỰ GIỮA NHỮNG KẺ CẮP
NƯỚC ANH THẾ KỶ THỨ MƯỜI TÁM – hay thỏa đáng hơn, Vương quốc Anh sau sự hợp nhất 1708 của Anh, xứ Wales và Scotland – đã có một giải pháp đơn giản để xử lý các phạm nhân: xa mặt cách lòng, hay chí ít khỏi rắc rối. Họ đã đày nhiều [phạm nhân] đến các thuộc địa hình phạt trong đế chế.
 Trước Chiến tranh Độc lập, các phạm nhân đã bị kết án, các tù nhân, chủ yếu đã được gửi sang các thuộc địa Mỹ. Sau 1783, Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ độc lập đã không còn hoan nghênh các tù nhân Anh, và các nhà chức trách Anh đã phải tìm xứ sở khác cho họ. Đầu tiên họ đã nghĩ đến Tây Phi. Nhưng khí hậu, với các bệnh địa phương như sốt rét và sốt vàng, mà những người Âu châu đã không có sự miễn dịch nào chống lại chúng, đã gây chết người đến mức các nhà chức trách đã quyết định rằng là không thể chấp nhận được để gửi ngay cả các tù nhân đến “nghĩa địa của người da trắng.” Sự lựa chọn tiếp theo của họ đã là Australia. Vùng bờ biển phía đông của nó đã được khám phá bởi nhà đi biển vĩ đại Thuyền trưởng James Cook. Ngày 29 tháng Tư năm 1770, Cook đã cập bến ở một vịnh nhỏ tuyệt vời, mà ông đã gọi là Vịnh Botany (Thực vật học) để tỏ lòng tôn vinh các loài phong phú được tìm thấy ở đó bởi các nhà tự nhiên học đi cùng với ông. Đấy đã có vẻ là một địa điểm lý tưởng cho các quan chức chính phủ Anh. Khí hậu ôn hòa, và chỗ này đã xa con mắt và xa tâm trí (xa mặt cách lòng) ở mức có thể tưởng tượng được.
Một đội gồm mười một chiếc tàu nhồi đầy các tù nhân đã trên đường đến Vịnh Botany trong tháng Giêng năm 1788 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Arthur Phillip. Vào ngày 26 tháng Giêng, bây giờ được kỷ niệm như Ngày Australia, họ đã dựng trại ở Vũng Sydney, trái tim của thành phố Sydney hiện đại. Họ đã gọi thuộc địa mới là New South Wales. Trên boong một trong những chiếc tàu, chiếc Alexander, do Duncan Sinclair làm thuyền trưởng, đã có một cặp vợ chồng tù nhân, Henry và Susannah Cable. Susannah đã được xác minh và tuyên bố có tội ăn trộm và ban đầu đã bị tuyên án tử hình. Bản án này muộn hơn được giảm xuống mười bốn năm và đày đi các thuộc địa Mỹ. Kế hoạch đó đã thất bại với sự độc lập của Hoa Kỳ. Trong lúc ấy, ở Nhà tù Norwich Castle, Susannah đã gặp và phải lòng Henry, một bạn tù. Trong năm 1787 cô bị chọn để đày sang thuộc địa tù mới ở Australia với đội tàu đầu tiên hướng về phía đó. Nhưng Henry đã không. Vào thời gian này Susannah và Henry đã có một con trai nhỏ, cũng được gọi là Henry. Quyết định này đã có nghĩa là gia đình bị ly tán. Susannah đã được chuyển đến một chiếc tàu tù thả neo trên sông Thames, nhưng tin tức đã lộ ra về sự kiện gây đau đớn khổ sở này và đã đến tai một người nhân đức, Lady Cadogan. Lady Cadogan đã tổ chức một chiến dịch thành công để đoàn tụ gia đình nhà Cable. Bây giờ cả hai được chở cùng với Henry nhỏ sang Australia. Lady Cadogan cũng đã thu được £20 để mua hàng hóa cho họ, mà họ sẽ nhận ở Australia. Họ đã đi trên chiếc Alexander, nhưng khi họ đến Vịnh Botany, kiện hàng đã biến mất, hay chí ít đó là cái Thuyền trưởng Sinclair đã xác nhận.
Nhà Cable đã có thể làm gì? Không nhiều, theo luật Anh. Cho dù trong năm 1787, Anh đã có các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm, tính bao gồm này đã không mở rộng ra cho các tù nhân, những người hầu như đã chẳng có quyền gì. Họ đã không thể sở hữu tài sản. Họ chắc chắn đã không thể kiện bất kỳ ai ở tòa án. Thực ra, họ thậm chí đã không thể cung cấp bằng chứng ở tòa án. Sinclair đã biết điều này và có lẽ đã lấy cắp kiện hàng. Mặc dù ông đã chẳng bao giờ thừa nhận việc đó, ông đã có khoác lác rằng ông không thể bị nhà Cable kiện. Ông đã đúng theo luật Anh. Và ở Anh toàn bộ vụ việc đã kết thúc ở đó. Nhưng không phải ở Australia. Một trát đã được phát ra cho David Collins, luật sư công tố (judge advocate) ở đó, như sau:
Xét rằng Henry Cable và vợ ông ta, những người định cư mới của nơi này, trước khi họ rời nước Anh đã có một kiện hàng nào đó được chuyển bằng tàu Alexander chở Thuyền trưởng Duncan Sinclair, gồm có quần áo và nhiều đồ khác thích hợp cho tình hình hiện tại của họ, mà đã được gom góp và mua với phí tổn của nhiều cá nhân có lòng từ thiện cho việc sử dụng của Henry Cable được nhắc tới ở trên, vợ và con ông. Nhiều đơn đã được làm ra cho mục đích rõ ràng để nhận được kiện hàng được nói tới ở trên từ Thuyền trưởng tàu Alexanderbây giờ đang nằm tại cảng này, và rằng không có kết quả (ngoại trừ) một phần nhỏ của kiện hàng được nói tới đó chứa vài cuốn sách, phần còn lại và phần dư, mà có giá trị đáng kể hơn vẫn còn ở trên tàu Alexander được nhắc tới ở trên, Thuyền trưởng của nó, có vẻ rất cẩu thả trong việc không khiến cho cùng thứ đó được giao cho các chủ tương ứng của nó như đã nói ở trên.
Henry và Susannah, vì cả hai đều không biết đọc biết viết, đã không thể ký trát và chỉ đánh “dấu chéo” của họ ở dưới cùng. Các từ “những người định cư mới của nơi này” muộn hơn đã bị gạch đi, nhưng đã hết sức quan trọng. Một người nào đó đã lường trước rằng nếu Henry Cable và vợ ông được mô tả như các tù nhân, thì vụ việc sẽ không có hy vọng gì được tiến hành. Thay vào đó người nào đó đã tìm ra ý tưởng gọi họ là những người định cư mới. Đấy có lẽ đã là hơi quá nhiều đối với Quan tòa Collins để chấp nhận, và rất có thể ông đã gạch các từ này đi. Nhưng trát đã có kết quả. Collins đã không bác vụ việc, và đã triệu tập phiên tòa, với một bội thẩm đoàn hoàn toàn gồm những người lính. Sinclair được triệu ra trước tòa. Mặc dù Collins đã ít nhiệt tình về vụ việc, và bội thẩm đoàn đã gồm những người được cử đến Australia để canh giữ các tù nhân như vợ chồng Cable, nhà Cable đã thắng. Sinclair đã tranh cãi không thừa nhận toàn bộ vụ việc với lý do rằng vợ chồng Cable đã là các tội phạm. Nhưng lời tuyên án đã có giá trị, và ông ta đã phải trả mười lăm bảng.
Để đi đến phán quyết này Quan tòa Collins đã không áp dụng luật Anh; ông đã bỏ qua nó. Đây là vụ kiện dân sự đầu tiên được xét xử ở Australia. Vụ hình sự đầu tiên có thể đã tỏ ra kỳ quái ngang thế đối với các vụ ở Anh. Một tù nhân đã được xác minh và tuyên là có tội ăn cắp bánh mỳ của một tù nhân khác, mà đã đáng giá hai xu (pence). Vào thời đó, một vụ như vậy không phải đến tòa án, vì các tù nhân đã không được phép sở hữu bất cứ thứ gì. Australia đã không phải là Anh, và luật của nó sẽ không hệt như luật Anh. Và chẳng bao lâu Australia khác với Anh về luật hình sự và dân sự cũng như về một loạt các thể chế kinh tế và chính trị.
Thuộc địa tù New South Wales ban đầu gồm các tù nhân và những người canh giữ họ, phần lớn là lính. Đã có ít “người định cư tự do” ở Australia cho đến các năm 1820, và việc đày tù nhân, dù đã ngừng ở New South Wales trong năm 1840, đã tiếp tục cho đến 1868 ở Tây Australia. Các tù nhân đã phải thực hiện “công việc ép buộc,” về bản chất chỉ là một cái tên khác cho lao động cưỡng bức, và những người canh giữ đã có ý định kiếm tiền từ việc đó. Ban đầu các tù nhân đã không có tiền công. Họ chỉ được nhận thức ăn đổi lại lao động họ đã thực hiện. Những người canh đã giữ sản phẩm họ sản xuất ra. Nhưng hệ thống này, giống các hệ thống mà Công ty Virginia đã thử nghiệm ở Jamestown, đã không hoạt động rất tốt, bởi vì các tù nhân đã không có những khuyến khích để làm việc siêng năng hay làm công việc tốt. Họ đã bị quất bằng roi hay bị đày đi Đảo Norfolk, lãnh thổ chỉ có mười ba dặm vuông nằm cách Australia hơn một ngàn dặm về phía phía đông trong Thái Bình Dương. Nhưng vì cả việc đày đi lẫn việc đánh bằng roi đã không có kết quả, lựa chọn khả dĩ khác đã là tạo cho họ các khuyến khích. Đấy đã không phải là một ý tưởng tự nhiên đối với những người lính và những người canh giữ. Tù nhân là tù nhân, và họ đã không được cho là để bán lao động của họ hay sở hữu tài sản. Nhưng ở Australia đã không có ai khác để làm việc. Tất nhiên đã có những người Aboriginal, có lẽ đông đến một triệu vào thời thành lập New South Wales. Nhưng họ đã ở rải rác khắp một lục địa mênh mông, và mật độ của họ ở New South Wales đã không đủ cho việc tạo ra một nền kinh tế dựa trên sự bóc lột họ. Đã không có lựa chọn Mỹ Latin nào ở Australia. Những người canh giữ như thế đã lao vào một con đường mà cuối cùng dẫn đến các thể chế mà thậm chí còn bao gồm hơn các thể chế ở bên Anh. Các tù nhân được giao một số nhiệm vụ để làm, và nếu họ có thời gian thêm, họ đã có thể làm cho chính mình và bán cái họ sản xuất ra.
Những người canh giữ cũng được hưởng lợi từ quyền tự do kinh tế mới của các tù nhân. Sản xuất đã tăng lên, và những người canh giữ đã dựng lên các độc quyền để bán hàng hóa cho các tù nhân. Món hàng béo bở nhất trong số này đã là rượu rum. New South Wales vào lúc đó, giống hệt các thuộc địa Anh khác, đã được vận hành bởi một thống đốc, do chính phủ Anh chỉ định. Năm 1806 Vương quốc Anh đã chỉ định William Bligh, người mà mười bảy năm trước, năm 1789, đã là thuyền trưởng của tàu H.M.S. Bounty, trong cuộc “Nổi loạn trên tàuBounty” nổi tiếng. Bligh đã là một người giữ kỷ luật nghiêm ngặt, một nét có lẽ đã chịu trách nhiệm phần lớn về cuộc nổi loạn. Cung cách của ông đã không thay đổi, và ngay lập tức ông đã thách thức các nhà độc quyền rum. Việc này đã dẫn đến một cuộc nổi loạn khác, lần này của các nhà độc quyền, đứng đầu bởi một cựu quân nhân, John Macarthur. Các sự kiện, mà được biết đến như cuộc Phiến loạn Rum, lần nữa lại đã dẫn Bligh bị những kẻ phiến loạn chế ngự, lần này trên mặt đất chứ không phải trên tàu Bounty. Macarthur đã sai nhốt Bligh lại. Các nhà chức trách Anh sau đó đã cử nhiều lính đến để giải quyết vụ nổi loạn. Macarthur đã bị bắt và bị đày về Anh. Nhưng không bao lâu sau ông được thả, và ông đã quay lại Australia để đóng một vai trò lớn trong cả chính trị lẫn kinh tế của thuộc địa.
Gốc rễ của cuộc Phiến loạn Rum đã là kinh tế. Chiến lược trao cho các tù nhân các khuyến khích đã làm ra rất nhiều tiền cho những người như Macarthur, người đã đến Australia như một người lính trong nhóm tàu thứ hai cập bến năm 1790. Năm 1796 ông giải ngũ rời quân đội để tập trung vào kinh doanh. Vào thời đó ông đã có con cừu đầu tiên của mình, và đã nhận ra rằng có thể kiếm được rất nhiều tiền trong chăn nuôi cừu và xuất khẩu len. Bên trong nội địa từ Sydney là dãy núi Blue Mountains, mà cuối cùng đã được băng qua trong năm 1813, để lộ ra những dải mênh mông đồng cỏ thoáng rộng ở sườn bên kia. Đã là thiên đường của cừu. Macarthur chẳng bao lâu đã là người giàu nhất Australia, và ông và các ông trùm cừu bạn ông đã được biết đến như những Kẻ Chiếm Đất (Squatter), vì đất mà trên đó họ cho cừu ăn cỏ đã không phải là đất của họ. Nó là đất do chính phủ Anh sở hữu. Nhưng lúc đầu đấy đã là một chi tiết nhỏ. Những Kẻ Chiếm Đất đã là giới elite của Australia, hay, thỏa đáng hơn, Chế độ Chiếm đất (Squattocracy).
Ngay cả với một Chế độ Chiếm đất, New South Wales đã không giống chút nào với các chế độ chuyên chế của Đông Âu hay của các thuộc địa Nam Mỹ. Đã không có các nông nô như ở Áo-Hungary và Nga, và không có đông dân bản địa để bóc lột như ở MexicoPeru. Thay vào đó, New South Wales đã giống Jamestown, Virginia, theo nhiều cách: giới elite cuối cùng đã thấy hợp với lợi ích của họ để tạo ra các thể chế kinh tế mang tính bao gồm hơn đáng kể so với các thể chế ở Áo-Hungary, Nga, Mexico, và Peru.
Các tù nhân đã là lực lượng lao động duy nhất, và cách duy nhất đến khuyến khích họ đã là trả lương cho họ đối với công việc họ làm. Không bao lâu sau các tù nhân đã được phép trở thành các doanh nhân khởi nghiệp và thuê các tù nhân khác. Đáng chú ý hơn, thậm chí họ đã được trao đất sau khi mãn hạn tù, và tất cả các quyền của họ đã được phục hồi. Một vài trong số họ đã trở nên giàu có, ngay cả Henry Cable mù chữ nữa. Vào năm 1798 ông đã sở hữu một khách sạn được gọi là Ramping Horse, và ông cũng đã có một cửa hàng. Ông đã mua một chiếc tàu và lao vào buôn da chó biển. Vào năm 1809 ông đã sở hữu ít nhất chín trang trại rộng khoảng 470 mẫu và cả nhiều cửa hàng và nhà ở Sydney.
Xung đột tiếp theo ở New South Wales đã là giữa elite và phần còn lại của xã hội, gồm có các tù nhân, các cựu tù nhân, và gia đình họ. Elite, dẫn đầu bởi những người canh giữ trước kia và các binh lính như Macarthur, kể cả một số người định cư tự do những người đã bị hấp dẫn đến thuộc địa bởi vì sự hưng thịnh bột phát trong ngành len. Hầu hết tài sản đã vẫn ở trong tay elite, và các cựu tù nhân và các hậu duệ của họ đã muốn chấm dứt sự lưu đày, muốn cơ hội được xử bởi một bội thẩm đoàn của những người cùng địa vị như họ, và sự tiếp cận đến đất miễn phí. Elite đã chẳng muốn thứ nào trong các thứ này. Mối quan tâm chính của họ là xác lập chứng thư pháp lý về quyền sở hữu đối với đất mà họ đã chiếm. Tình hình lại đã giống với các sự kiện mà đã diễn ra ở Bắc Mỹ hơn hai thế kỷ trước. Như chúng ta đã thấy ở chương 1, thắng lợi của những người hầu được mang từ nước ngoài vào chống lại Công ty Virginia đã được kế tiếp bởi các cuộc đấu tranh ở Maryland và Carolina. Ở New South Wales, các vai của Lord Baltimore và Sir Anthony Ashley-Cooper đã được đóng bởi Macarthur và những Kẻ Chiếm Đất. Chính phủ Anh lần nữa đã lại ở bên elite, mặc dù họ cũng đã sợ rằng một ngày nào đó Macarthur và những Kẻ Chiếm Đất có thể bị cám dỗ để tuyên bố độc lập.
Chính phủ Anh đã cử John Bigge đến thuộc địa vào năm 1819 để đứng đầu một ủy ban điều tra về những sự phát triển ở đó. Bigge đã bị sốc bởi các quyền mà các tù nhân được hưởng và đã ngạc nhiên bởi bản chất bao gồm căn bản của các thể chế kinh tế của thuộc địa tù này. Ông đã kiến nghị một sự xem xét lại triệt để: các tù nhân không thể sở hữu đất, không ai được phép trả lương cho các tù nhân nữa, sự xá tội đã phải hạn chế, không được cấp đất cho các cựu tù nhân, và sự trừng phạt phải khắc nghiệt hơn nhiều. Bigge đã coi những Kẻ Chiếm Đất như tầng lớp quý tộc tự nhiên của Australia và đã hình dung một xã hội chuyên quyền do họ thống trị. Điều này đã không xảy ra.
Trong lúc Bigge đã thử vặn lại đồng hồ, các cựu tù nhân và con trai và con gái họ đã đòi hỏi nhiều quyền hơn. Quan trọng nhất, họ đã nhận ra, lại hệt như ở Hoa Kỳ, rằng để củng cố các quyền kinh tế và chính trị của họ một cách đầy đủ họ cần đến các thể chế chính trị mà sẽ bao hàm họ trong quá trình ra quyết định. Họ đã đòi hỏi các cuộc bầu cử mà trong đó họ có thể tham gia như những người ngang hàng và các thể chế đại diện và các hội đồng mà trong đó họ có thể giữ các chức vụ.
Các cựu tù nhân và các con trai và con gái của họ đã được lãnh đạo bởi nhà văn sôi nổi, nhà thám hiểm, và nhà báo William Wentworth. Wentworth đã là một trong các nhà lãnh đạo của đoàn thám hiểm vượt qua núi Blue Mountains, mà đã mở ra các đồng cỏ mênh mông cho những Kẻ Chiếm Đất; một thị trấn trên các núi này vẫn được đặt tên ông. Sự thương cảm của ông đã dành cho các tù nhân, có lẽ bởi vì cha ông, người đã bị tố cáo cướp đường và đã chấp nhận sự lưu đày sang Australia để tránh sự xét xử và sự kết án có thể xảy ra. Vào lúc này, Wentworth đã là một người ủng hộ mạnh mẽ các thể chế chính trị bao gồm hơn, một quốc hội được bầu, sự xét xử bởi bội thẩm đoàn đối với các cựu tù nhân và gia đình của họ, và một sự chấm dứt lưu đày sang New South Wales. Ông đã bắt đầu một tờ báo, tờ Australian, mà từ đó trở đi hướng dẫn cuộc tấn công lên các thể chế chính trị hiện tồn. Macarthur đã không thích Wentworth và chắc chắn đã không thích cái ông đòi. Ông đã xem xét kỹ một danh sách những người ủng hộ Wentworth, mô tả đặc điểm họ như sau:
đã bị kết án treo cổ từ khi hắn đến đây
bị đánh đòn lặp đi lặp lại ở đằng sau xe bò
một người Do Thái London
chủ quán Do Thái mới bị tước giấy phép gần đây
người bán đấu giá bị đày vì buôn bán nô lệ
thường bị đánh đòn ở đây
con trai của hai tù nhân
một kẻ lừa đảo – bị nợ nần chồng chất
một người Mỹ phiêu lưu
một luật sư với tính cách không ra gì
một kẻ lạ vừa thất bại ở đây trong một tiệm âm nhạc
người lấy con gái của hai tù nhân
người lấy một tù nhân mà trước đây là một cô gái đánh trống tambourine.
Sự phản đối mãnh liệt của Macarthur và những Kẻ Chiếm Đất, tuy vậy, đã không thể chặn trào lưu ở Australia. Việc đòi các thể chế đại diện đã mạnh mẽ và đã không thể bị dập tắt. Cho đến 1823 thống đốc đã ít nhiều tự mình cai trị New South Wales. Trong năm đó các quyền hạn của ông ta đã bị hạn chế bởi việc tạo ra một hội đồng do chính phủ Anh chỉ định. Ban đầu những người được chỉ định đã từ những Kẻ Chiếm Đất và elite không-tù nhân, Macarthur là giữa trong số họ, nhưng điều này đã không thể kéo dài. Năm 1831 thống đốc Richard Bourke đã chịu khuất phục trước áp lực và lần đầu tiên đã cho phép các cựu tù nhân ngồi trong bội thẩm đoàn. Các cựu tù nhân và thực ra nhiều người định cư tự do cũng đã muốn ngừng việc đày các tù nhân từ Anh, bởi vì nó đã tạo ra sự cạnh tranh trong thị trường lao động và đã đẩy lương xuống. Những Kẻ Chiếm Đất đã thích lương thấp, nhưng họ đã thua. Trong năm 1840 việc đày sang New South Wales đã ngừng, và trong năm 1842 một hội đồng lập pháp đã được tạo ra với hai-phần-ba các thành viên của nó được bầu (số còn lại được chỉ định). Các cựu tù nhân đã có thể tranh cử vào chức vụ và bỏ phiếu nếu họ có đủ tài sản, và nhiều người đã có.
Vào các năm 1850, Australia đã đưa ra quyền đi bầu cho người da trắng trưởng thành. Các đòi hỏi của các công dân, các cựu tù nhân và gia đình của họ, bây giờ đã vượt xa mức mà William Wentworth đầu tiên đã hình dung. Thực ra, vào lúc này đông đã ở phía của những người bảo thủ khăng khăng về một Hội đồng Lập pháp không được bầu. Nhưng hoàn toàn giống Macarthur trước đó, Wentworth đã không có khả năng để ngừng trào lưu tiến đến các thể chế chính trị bao gồm hơn. Trong năm 1856 bang Victoria, mà đã được cắt ra từ New South Wales năm 1851, và bang Tasmania đã trở thành các nơi đầu tiên trên thế giới để đưa việc bỏ phiếu kín bí mật hiệu quả trong các đợt bầu cử, mà đã chặn việc mua phiếu và ép buộc. Ngày nay chúng ta vẫn gọi phương pháp chuẩn để đạt sự bí mật trong bỏ phiếu ở các cuộc bầu cử là bỏ phiếu Australian.
Hoàn cảnh ban đầu ở Sydney, New South Wales, đã rất giống hoàn cảnh ở Jamestown, Virginia, 181 năm trước, mặc dù những người định cư ở Jamestown phần lớn đã là những người lao động được đưa từ nước ngoài đến, hơn là các tù nhân. Trong cả hai trường hợp hoàn cảnh ban đầu đã không cho phép việc tạo ra các thể chế thuộc địa khai thác. Cả hai đều đã không có dân cư bản xứ đông đúc để bóc lột, đã không có sự tiếp cận dễ dàng đến các kim loại quý như vàng hay bạc, hay đất và cây trồng mà đã có thể làm cho các đồn điền nô lệ có thể tồn tại về mặt kinh tế. Việc buôn bán nô lệ vẫn còn sống động trong các năm 1780, và New South Wales đã có thể tràn đầy nô lệ giả như nó đã sinh lời. Nó đã không. Cả Công ty Virginia và những người lính và các nhà định cư tự do những người chạy đến New South Wales đã chịu khuất phục trước những áp lực, từ từ tạo ra các thể chế kinh tế bao gồm mà đã phát triển cùng với các thể chế chính trị bao gồm. Việc này đã xảy ra thậm chí với ít đấu tranh hơn ở New South Wales so với ở Virginia, và các mưu toan tiếp sau để đảo ngược xu hướng này đã thất bại.
 AUSTRALIA, GIỐNG HOA KỲ, đã trải qua một con đường khác đến các thể chế bao gồm so với con đường Anh đã đi. Cùng các cuộc cách mạng mà đã làm rung chuyển nước Anh trong Nội Chiến và sau đó Cách mạng Vinh quang đã không cần đến ở Hoa Kỳ hay Australia bởi vì chính các hoàn cảnh rất khác mà trong đó các nước này dựa vào – mặc dù điều này tất nhiên không có nghĩa rằng các thể chế bao gồm đã được thiết lập mà không có xung đột nào, và, trong quá trình, Hoa Kỳ đã phải lật đổ chủ nghĩa thuộc địa Anh. Ở nước Anh đã có một lịch sử dài về sự cai trị chuyên chế mà đã bám sâu và đã cần đến một cuộc cách mạng để xóa bỏ nó. Ở Hoa Kỳ và Australia, đã không có thứ như vậy. Mặc dù Lord Baltimore ở Maryland và John Macarthur ở New South Wales đã có thể mong mỏi một vai trò như vậy, họ đã không thể thiết lập một sự kìm kẹp đủ mạnh lên xã hội để cho các kế hoạch của họ ra quả. Các thể chế bao gồm được thiết lập ở Hoa Kỳ và Australia đã có nghĩa rằng Cách mạng Công nghiệp lan nhanh chóng đến các miền đất này và chúng bắt đầu trở nên giàu. Con đường mà các nước này đi đã được các thuộc địa như CanadaNew Zealand noi theo.
Đã vẫn có những con đường khác đến các thể chế bao gồm. Các phần lớn của Tây Âu đã đi một con đường thứ ba đến các thể chế bao gồm dưới sự thúc đẩy của Cách mạng Pháp, mà đã lật đổ chính thể chuyên chế ở Pháp và rồi đã gây ra một chuỗi các xung đột giữa các quốc gia mà đã truyền bá cải cách thể chế ngang qua phần lớn Tây Âu. Hệ quả kinh tế của những cải cách này đã là sự nổi lên của các thể chế kinh tế bao gồm ở hầu hết Tây Âu, Cách mạng Công nghiệp, và tăng trưởng kinh tế.
 PHÁ VỠ CÁC RÀO CẢN:
CÁCH MẠNG PHÁP
Trong ba thế kỷ trước năm 1789, Pháp đã được cai trị bởi một nền quân chủ chuyên chế. Xã hội Pháp đã được chia thành ba mảng, thành cái được gọi là các đẳng cấp (estate). Các nhà quý tộc (giới quý tộc) tạo thành Đẳng Cấp Thứ Nhất, giới tăng lữ Đẳng Cấp Thứ Hai, và tất cả những người khác Đẳng Cấp Thứ Ba. Các đẳng cấp khác nhau đã phải chịu các luật khác nhau, và hai đẳng cấp đầu tiên đã có các quyền mà phần còn lại của dân cư đã không có. Giới quý tộc và tăng lữ đã không đóng thuế, trong khi các công dân đã phải đóng nhiều loại thuế khác nhau, như chúng ta có thể kỳ vọng từ một chế độ mang tính khai thác trên quy mô lớn. Thực ra, đã không chỉ Giáo hội được miễn thuế, mà nó cũng đã sở hữu các dải lớn đất đai và đã có thể áp đặt các loại thuế riêng của nó lên các nông dân. Quốc vương, giới quý tộc, và giới tăng lữ đã hưởng thụ lối sống xa hoa, trong khi phần lớn Đẳng Cấp Thứ Ba sống trong sự nghèo nàn kinh khủng. Các luật khác nhau không chỉ đã đảm bảo một vị thế kinh tế hết sức thuận lợi cho giới quý tộc và tăng lữ, mà nó cũng trao cho họ quyền lực chính trị.
Đời sống trong các thành phố Pháp thế kỷ thứ mười tám đã khắc nghiệt và có hại cho sức khỏe. Sự sản xuất đã bị điều tiết bởi các phường hội hùng mạnh, mà đã tạo ra thu nhập tốt cho các thành viên của chúng nhưng đã ngăn cản những người khác tham gia vào các nghề này hay khởi động các doanh nghiệp mới. Cái gọi là ancien régime (chế độ cũ) đã tự kiêu hãnh về tính liên tục và ổn định của nó. Sự tham gia của các doanh nhân khởi nghiệp và các cá nhân tài giỏi vào các nghề mới sẽ tạo ra sự bất ổn định và đã không được dung thứ. Nếu cuộc sống trong các thành phố đã là khắc nghiệt, cuộc sống ở các làng có lẽ đã còn tồi hơn. Như chúng ta đã thấy, vào thời gian này hình thức cực đoan nhất của chế độ nông nô, mà gắn chặt người dân vào đất và buộc họ phải làm việc và trả thuế cho các chúa phong kiến, đã suy tàn lâu ở nước Pháp. Tuy nhiên, đã có những hạn chế về tính di động và trạng thái quá nhiều thuế mà các nông dân Pháp đã phải trả cho quốc vương, giới quý tộc, và Giáo hội.
Tương phản với bối cảnh này, Cách mạng Pháp đã là một việc cấp tiến. Ngày 4 tháng Tám năm 1789, Quốc hội Lập hiến đã thay đổi hoàn toàn các luật của Pháp bằng kiến nghị một hiến pháp mới. Điều thứ nhất nói rõ:
Quốc hội bằng cách này xóa bỏ hoàn toàn hệ thống phong kiến. Nó ra sắc lệnh rằng, giữa các quyền và thuế hiện tồn, cả phong kiến và địa tô, tất cả những thứ hình thành trong hay tượng trưng cho thân phận nông nô thực hay cá nhân sẽ bị xóa bỏ mà không có sự bồi thường nào.
Rồi điều thứ chín của nó tiếp tục:
Các đặc quyền về tiền tài, cá nhân hay thực tế, trong nộp thuế bị xóa bỏ vĩnh viễn. Thuế sẽ được thu từ tất cả các công dân, và từ mọi tài sản, theo cùng cách và trong cùng hình thức. Các kế hoạch sẽ được xem xét mà theo đó các loại thuế sẽ được trả một cách tỷ lệ bởi tất cả mọi người, ngay cả cho sáu tháng cuối cùng của năm này.
Như thế, trong một cú đột kích, Cách mạng Pháp đã xóa bỏ hệ thống phong kiến và mọi giao ước và thuế mà nó đã đòi hỏi, và nó đã bãi bỏ toàn bộ những sự miễn thuế của giới quý tộc và tăng lữ. Nhưng có lẽ cái đã là cấp tiến nhất, thậm chí không thể tưởng tượng nổi vào thời ấy, đã là điều thứ mười một, mà nói rõ:
Tất cả mọi công dân, không phân biệt dòng dõi, đều có quyền đối với bất cứ chức vụ hay chức tước cao nào, bất luận tu sĩ, dân sự, hay quân sự; và không nghề nào sẽ ngụ ý bất cứ sự xúc phạm nào.
Như thế bây giờ đã có sự bình đẳng trước pháp luật cho tất cả mọi người, không chỉ trong đời sống hàng ngày và trong kinh doanh, mà cả trong chính trị. Những cải cách của cách mạng đã tiếp tục sau ngày 4 tháng Tám. Rồi sau đó nó đã bãi bỏ quyền của Giáo hội để thu các loại thuế đặc biệt và biến giới tăng lữ thành các viên chức nhà nước. Cùng với việc xóa bỏ các vai trò chính trị và xã hội cứng nhắc, các rào cản cơ bản chống lại các hoạt động kinh tế đã bị nghiền nát. Các phường hội và mọi hạn chế nghề nghiệp đã bị hủy bỏ, tạo ra một sân chơi bằng phẳng hơn trong các thành phố.
Những cải cách này đã là bước đầu tiên theo hướng chấm dứt thế lực của các quốc vương Pháp chuyên chế. Nhiều thập niên bất ổn định và chiến tranh đã tiếp theo các tuyên bố ngày 4 tháng Tám. Nhưng một bước không thể đảo ngược đã được lấy đi khỏi chính thể chuyên chế và các thể chế khai thác và hướng tới các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm. Những thay đổi này được tiếp theo bởi những cải cách khác trong nền kinh tế và trong chính trị, cuối cùng lên đến đỉnh điểm trong nền Cộng hòa Thứ ba vào năm 1870, mà đã mang đến cho nước Pháp loại hệ thống nghị viện mà Cách mạng Vinh quang đã khởi động ở nước Anh. Cách mạng Pháp đã tạo ra nhiều bạo lực, sự đau khổ, sự bất ổn định, và chiến tranh. Tuy nhiên, nhờ nó, mà nước Pháp đã không bị sập bẫy với các thể chế khai thác ngăn cản tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng, như các chế độ chuyên chế của Đông Âu như Áo-Hungary và Nga.
Làm thế nào mà nền quân chủ Pháp chuyên chế đã đến bờ vực của cách mạng 1789? Rốt cuộc, chúng ta đã thấy nhiều chế độ chuyên chế đã có khả năng sống sót trong các thời kỳ dài, ngay cả giữa sự trì trệ kinh tế và chấn động xã hội. Như với hầu hết các trường hợp của các cuộc cách mạng và những thay đổi triệt để, nó đã là một sự hợp lưu của các nhân tố mở đường đến Cách mạng Pháp, và các nhân tố này đã quan hệ mật thiết với sự thực rằng Anh đang công nghiệp hóa nhanh chóng. Và tất nhiên con đường đã là, như thường lệ, tùy thuộc ngẫu nhiên, vì nhiều mưu toan của nền quân chủ để ổn định hóa chế độ đã thất bại và cách mạng đã hóa ra thành công hơn trong thay đổi các thể chế ở Pháp và ở các nơi khác ở châu Âu so với mức nhiều người đã có thể hình dung trong năm 1789.
Nhiều luật và đặc quyền ở Pháp đã là các tàn dư của thời trung cổ. Chúng không chỉ đã ưu ái cho các Đẳng Cấp Thứ nhất và Thứ hai tương đối so với đa số dân cư mà cũng đã trao cho họ các đặc quyền vis-à-vis (so với) Quốc vương. Louis XIV, Vua Mặt trời, đã cai trị Pháp trong năm mươi tư năm, giữa 1661 đến lúc ông chết năm 1715, mặc dù ông thực sự đã lên ngôi trong năm 1643, vào lúc năm tuổi. Ông đã củng cố quyền lực của nền quân chủ, đẩy mạnh quá trình hướng tới chính thể chuyên chế lớn hơn mà đã bắt đầu hàng thế kỷ trước. Nhiều quốc vương thường đã tham vấn cái gọi là Hội Đồng Nhân Sĩ, gồm các quý tộc chủ chốt do Quốc vương chọn lọc. Mặc dù phần lớn mang tính tham vấn, Hội Đồng đã vẫn hoạt động như một ràng buộc nhẹ lên quyền lực của quốc vương. Vì lý do này, Louis XIV đã cai trị mà không triệu tập Hội Đồng. Dưới triều ông, Pháp đã đạt sự tăng trưởng kinh tế nào đó – thí dụ, qua tham gia vào thương mại Đại Tây Dương và thuộc địa. Bộ trưởng tài chính có tài của Louis, Jean-Baptiste Colbert, cũng đã trông coi việc phát triển công nghiệp do chính phủ tài trợ và do chính phủ kiểm soát, một loại của sự tăng trưởng khai thác. Lượng hạn chế này của sự tăng trưởng đã làm lợi hầu như chỉ riêng cho các Đẳng Cấp Thứ Nhất và Thứ Hai. Louis XIV cũng đã muốn hợp lý hóa hệ thống thuế của Pháp, bởi vì nhà nước thường đã có các vấn đề về cấp tài chính cho các cuộc chiến tranh thường xuyên của nó, quân đội thường trực lớn của nó, và đoàn tùy tùng, sự tiêu thụ, và các lâu đài xa hoa của riêng nhà Vua. Sự bất lực để đánh thuế ngay cả giới quý tộc nhỏ đặt các giới hạn nghiêm ngặt lên các khoản thu của nó.
Mặc dù đã có một chút tăng trưởng kinh tế, vào thời Louis XVI lên nắm quyền trong năm 1774, tuy nhiên đã có những thay đổi lớn trong xã hội. Hơn nữa, các vấn đề tài khóa trước đây đã biến thành một khủng hoảng tài khóa, và Chiến tranh Bảy Năm với Anh giữa 1756 và 1763, trong đó Pháp đã mất Canada, đã đặc biệt tốn kém. Nhiều nhân vật quan trọng đã thử cân bằng ngân sách hoàng gia bằng cách tái cấu trúc nợ và tăng các loại thuế; giữa họ đã có Anne-Robert-Jacques Turgot, một trong những nhà kinh tế học nổi tiếng nhất thời đó; Jacques Necker, người cũng đóng một vai trò quan trọng sau cách mạng; và Charles Alexandre de Calonne. Nhưng đã chẳng ai thành công. Calonne, như phần của chiến lược của ông, đã thuyết phục Louis XVI để triệu tập Hội Đồng Nhân Sĩ. Nhà vua và các cố vấn của ông đã kỳ vọng Hội Đồng ủng hộ các cải cách của ông hầu như theo cùng cách như Charles I đã kỳ vọng Quốc hội Anh để đơn giản đồng ý chi trả cho một quân đội để đánh những người Scottish khi ông triệu tập nó năm 1640. Hội đồng đã đi một bước bất ngờ và đã ra sắc lệnh rằng chỉ có một cơ quan đại diện, Estates-General, đã có thể ủng hộ các cải cách như vậy.
Estates-General đã là một cơ quan rất khác với Hội Đồng Nhân Sĩ. Trong khi tổ chức sau bao gồm giới quý tộc và phần lớn được chọn bởi Quốc vương từ các quý tộc lớn, thì tổ chức trước đã bao gồm các đại diện của cả ba đẳng cấp. Nó đã được triệu tập lần cuối cùng trong năm 1614. Khi Estates-General tụ tập năm 1789 ở Versailles, đã trở nên rõ ràng là, không thể đạt được thỏa thuận nào cả. Đã có những sự khác biệt không thể hòa giải được, vì Estate (Đẳng Cấp) Thứ Ba đã coi đây như cơ hội của nó để tăng quyền lực chính trị của mình và đã muốn có nhiều phiếu bầu hơn trong Estates-General, mà giới quý tộc và tăng lữ đã kiên quyết phản đối. Cuộc họp kết thúc ngày 5 tháng Năm, 1789, mà không có nghị quyết nào, trừ quyết định để triệu tập một cơ quan hùng mạnh hơn, Quốc hội, làm sâu sắc cuộc khủng hoảng chính trị. Estate Thứ Ba, nhất là các nhà buôn, các nhà kinh doanh, các nhà chuyên môn, và các thợ thủ công, những người đều đã có những đòi hỏi để có quyền lực lớn hơn, đã thấy những diễn tiến này như là bằng chứng của quyền lực ngày càng tăng của họ. Trong Quốc hội, vì thế họ đã đòi thậm chí nhiều tiếng nói hơn trong những cách tiến hành và nhiều quyền hơn nói chung. Sự ủng hộ của họ trên đường phố khắp đất nước bởi các công dân được làm cho bạo dạn bởi những diễn biến này đã dẫn đến việc tổ chức lại Quốc hội như Quốc hội Lập hiến ngày 9 tháng Bảy.
Trong thời gian đó, tâm trạng trong nước, và đặc biệt ở Paris, đã trở nên cấp tiến hơn. Đáp lại, các giới bảo thủ xung quanh Louis XVI đã thuyết phục ông sa thải Necker, bộ trưởng tài chính theo đường lối cải cách. Việc này đã dẫn đến sự cấp tiến hóa hơn trên đường phố. Kết quả đã là sự kiện nổi tiếng đột chiếm Bastille ngày 14 tháng Bảy, 1789. Từ thời điểm này trở đi, cách mạng đã bắt đầu dữ dội. Necker đã được phục hồi chức, và nhà cách mạng Marquis de Lafayette được cử phụ trách Vệ binh Quốc gia Paris.
Thậm chí đáng chú ý hơn việc đột chiếm Bastille đã là sự năng động của Quốc hội Lập hiến, mà ngày 4 tháng Tám, 1789, với sự tự tin mới được tìn thấy của nó, đã thông qua hiến pháp mới, xóa bỏ chủ nghĩa phong kiến và các đặc quyền đặc biệt của các Estate thứ Nhất và thứ Hai. Nhưng sự cấp tiến hóa này đã dẫn đến sự bè phái hóa ở bên trong Quốc hội, vì đã có nhiều quan điểm xung đột nhau về hình thù mà xã hội nên có. Bước đầu tiên đã là sự hình thành của các hội (club) địa phương, đáng chú ý nhất là Hội Jacobin [Club] cấp tiến, mà muộn hơn nắm quyền kiểm soát cuộc cách mạng. Đồng thời, các quý tộc chạy trốn khỏi đất nước với số lượng lớn – cái gọi là émigrés (những người di tản). Nhiều người đã cũng cổ vũ nhà vua để tuyệt giao với Quốc hội và hành động, hoặc tự mình hay với sự giúp đỡ của các cường quốc nước ngoài, như Áo, đất nước quê hương của Hoàng hậu Marie Antoinette và nơi hầu hết émigrés đã trốn sang. Vì nhiều người trên đường phố đã bắt đầu thấy một mối đe dọa sắp xảy ra chống lại các thành quả cách mạng trong hai năm qua, sự cấp tiến hóa đã lấy được nhịp độ. Quốc hội Lập Hiến đã thông qua phiên bản cuối cùng của hiến pháp ngày 29 tháng Chín, 1791, biến Pháp thành một nền quân chủ lập hiến, với sự bình đẳng về các quyền cho tất cả những người đàn ông, không có các nghĩa vụ hay thuế phong kiến, và chấm dứt mọi hạn chế buôn bán được áp đặt bởi các phường hội. Pháp đã vẫn là một nền quân chủ, nhưng nhà vua bây giờ đã có ít vai trò và, thực ra, không có ngay cả quyền tự do của mình.
Nhưng sự năng động của cách mạng sau đó đã bị thay đổi một cách không thể đảo ngược bởi cuộc chiến tranh nổ ra năm 1792 giữa Pháp và “liên minh đầu tiên,” do Áo dẫn đầu. Chiến tranh đã làm tăng quyết tâm và chủ nghĩa cấp tiến của các nhà cách mạng và của quần chúng (cái gọi là sans-culottes, mà được dịch ra như “không có quần ống túm ở đầu gối,” bởi vì họ đã không thể có đủ khả năng mặc kiểu quần đang mốt khi đó). Kết quả của quá trình này đã là giai đoạn được biết đến như Khủng bố, dưới sự chỉ huy của phe Jacobin do Robespierre và Saint-Just lãnh đạo, được tháo tung ra sau việc hành quyết Louis XVI và Marie Antoinette. Nó đã dẫn đến các vụ hành quyết không chỉ nhiều nhà quý tộc và phản cách mạng mà cả nhiều nhân vật chủ chốt của cách mạng, kể cả các cựu lãnh tụ được lòng dân Brissot, Danton, và Desmoulins.
Nhưng Khủng bố đã chẳng mấy chốc vượt khỏi vòng kiểm soát và cuối cùng đã đi đến kết thúc vào tháng Bảy năm 1794 với việc tử hình các lãnh tụ của chính nó, kể cả Robespierre và Saint-Just. Tiếp theo đã là một thời kỳ ổn định tương đối, đầu tiên dưới thời của Hội đồng Đốc chính (Directory) hơi kém hiệu quả, giữa 1795 và 1799, và sau đó với quyền lực được tập trung hơn dưới dạng một Chế độ tổng tài (Consulate) ba người, gồm có Ducos, Sieyès, và Napoleon Bonaparte. Ngay dưới thời Hội đồng Đốc chính, vị tướng trẻ Napoleon Bonaparte đã trở nên nổi tiếng rồi vì các thành công quân sự của ông, và ảnh hưởng của ông đã chỉ tăng lên sau 1799. Chế độ tổng tài chẳng bao lâu sau đã biến thành sự cai trị cá nhân của Napoleon.
Các năm giữa 1799 và sự kết thúc của triều đại Napoleon, 1815, đã chứng kiến một chuỗi chiến thắng quân sự vĩ đại cho nước Pháp, kể cả chiến thắng tại Austerlitz, Jena-Auerstadt, và Wagram, bắt châu Âu lục địa quỳ gối. Chúng cũng đã cho phép Napoleon áp đặt ý chí của mình, các cuộc cải cách của mình, và bộ luật của mình ngang một vùng lãnh thổ rộng lớn. Sự sụp đổ của Napoleon sau thất bại cuối cùng của ông năm 1815 cũng mang lại một thời kỳ cắt giảm, các quyền chính trị bị hạn chế hơn, và sự khôi phục của nền quân chủ Pháp dưới thời Louis XVII. Nhưng tất cả những thứ này đã đơn thuần chỉ làm chậm sự nổi lên cuối cùng của các thể chế chính trị bao gồm.
Các lực được tháo ra bởi cách mạng 1789 đã chấm dứt chính thể chuyên chế Pháp và một cách không thể tránh khỏi, cho dù chậm chạp, đã dẫn đến sự nổi lên của các thể chế bao gồm. Pháp, và các phần của châu Âu nơi các cuộc cải cách cách mạng đã được xuất khẩu sang, sẽ tham gia vào quá trình công nghiệp hóa đang tiến triển trong thế kỷ thứ mười chín.
 XUẤT KHẨU CÁCH MẠNG
Trước Cách mạng Pháp năm 1789, đã có những hạn chế nghiêm ngặt đối với những người Do thái khắp châu Âu. Ở thành phố Đức Frankfurt, chẳng hạn, cuộc sống của họ đã bị điều tiết bởi các lệnh được trình bày trong một quy chế từ thời Trung Cổ. Đã không thể có nhiều hơn năm trăm gia đình Do Thái ở Frankfurt, và tất cả họ đã phải sống trong một khu nhỏ được xây tường bao quanh của thành phố, Judengasse, ghetto (khu riêng cho người) Do Thái. Họ đã không thể rời ghetto vào ban đêm, vào các ngày Chủ nhật, hay trong bất cứ ngày hội Christian nào. Judengasse đã bị cản trở một cách không thể tin được. Nó dài một phần tư dặm nhưng không rộng hơn mười hai bộ (3,66 m) và ở một số nơi rộng ít hơn mười bộ. Những người Do Thái sống dưới sự đàn áp và quy định liên miên. Mỗi năm, nhiều nhất hai gia đình được nhận vào ghetto, và nhiều nhất mười hai cặp Do Thái có thể được kết hôn, và chỉ nếu cả hai đã trên tuổi hai mươi lăm. Những người Do Thái đã không thể canh tác chăn nuôi; họ cũng đã không thể buôn bán về vũ khí, gia vị, rượu, hay ngũ cốc. Cho đến 1726 họ đã phải mang các dấu hiệu đặc biệt, hai vòng tròn vàng đồng tâm cho những người đàn ông và một mạng che mặt có sọc cho phụ nữ. Tất cả những người Do Thái đã phải đóng thuế thân đặc biệt.
Khi Cách mạng Pháp nổ ra, một nhà kinh doanh trẻ thành công, Mayer Amschel Rothschild, đã sống tại Judengasse ở Frankfurt. Vào đầu các năm 1780, Rothschild đã xác lập mình như một thương nhân hàng đầu về tiền đúc, kim loại, và đồ cổ ở Frankfurt. Nhưng giống tất cả những người Do Thái trong thành phố, ông đã không thể mở một doanh nghiệp bên ngoài ghetto hay thậm chí sống ở ngoài ghetto.
Tất cả điều này sắp thay đổi chẳng bao lâu nữa. Năm 1791 Quốc hội Pháp đã giải phóng dân Do Thái Pháp. Các đội quân Pháp chiếm đóng Rhineland (vùng sông Rhine) và đã giải phóng những người Do Thái ở miền Tây nước Đức. Ở Frankfurt tác động của chúng đột ngột hơn và có lẽ hơi không chủ tâm. Năm 1796 những người Pháp đã oanh tạc Frankfurt, phá hủy một nửa Judengasse trong quá trình đó. Khoảng hai ngàn người Do Thái đã bị bỏ vô gia cư và đã phải chuyển ra ngoài ghetto. Nhà Rothschild đã ở trong số những người này. Một khi đã ở bên ngoài ghetto, và bây giờ được giải thoát khỏi vô số các quy chế ngăn cản họ khỏi tinh thần kinh doanh khởi nghiệp, họ đã có thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh mới. Điều này bao gồm cả một hợp đồng cung ứng ngũ cốc cho quân đội Áo, việc mà trước đây họ đã không thể được phép làm.
Vào cuối thập kỷ, Rothschild đã là một trong những người Do Thái giàu nhất Frankfurt và đã là một nhà kinh doanh có uy tín lâu rồi. Sự giải phóng toàn bộ đã còn phải đợi đến 1811; nó cuối cùng đã được thực hiện bởi Karl von Dalberg, người đã được phong là Đại Công tước Frankfurt trong việc tổ chức lại nước Đức năm 1806 của Napoleon. Mayer Amschel đã bảo con trai mình, “Con bây giờ là một công dân.”
Những sự kiện như vậy đã không chấm dứt cuộc chiến đấu vì sự giải phóng người Do Thái, vì đã có những sự đảo ngược sau đó, đặc biệt tại Hội nghị Vienna năm 1815, mà đã thành hình sự dàn xếp chính trị hậu-Napoleonic. Nhưng đã không có chuyện quay lại ghetto đối với nhà Rothschild. Mayer Amschel và con trai ông chẳng bao lâu sau đã có ngân hàng lớn nhất châu Âu thế kỷ thứ mười chín, với các chi nhánh ở Frankfurt, London, Paris, Naples, và Vienna.
Đây đã không là một sự kiện cô lập. Đầu tiên các Đội quân Cách mạng Pháp và rồi Napoleon đã xâm chiếm các phần lớn của châu Âu lục địa, và trong hầu như tất cả các vùng mà họ xâm chiếm, các thể chế hiện tồn đã là các tàn dư của thời trung cổ, trao quyền cho các vua, các hoàng tử, và giới quý tộc và hạn chế thương mại cả ở các thành phố và ở vùng nông thôn. Chế độ nông nô và chủ nghĩa phong kiến đã quan trọng ở nhiều vùng này hơn ở bản thân nước Pháp rất nhiều. Ở Đông Âu, kể cả Phổ và phần Hungary của Áo-Hungary, các nông nô đã bị gắn với đất. Ở phương Tây hình thái nghiêm ngặt này của chế độ nông nô đã biến mất rồi, nhưng các nông dân đã nợ các chúa phong kiến nhiều loại phí lãnh chúa, thuế, và các nghĩa vụ lao động. Thí dụ, ở chính thể Nassau-Usingen, các nông dân đã phải chịu 230 loại đóng góp, thuế, và dịch vụ khác nhau. Thuế đã bao gồm cả một loại mà phải trả sau khi một súc vật bị giết thịt, được gọi là thuế sát sinh (blood tithe); đã cũng có thuế ong và thuế sáp ong. Nếu một tài sản được mua hay bán, phải đóng phí cho chúa. Các phường hội điều tiết mọi loại hoạt động kinh tế ở các thành phố đã cũng mạnh hơn một cách điển hình ở các nơi này hơn là ở Pháp. Ở các thành phố Cologne và Aachen miền tây nước Đức, việc chấp nhận các máy kéo sợi và dệt đã bị các phường hội ngăn chặn. Nhiều thành phố, từ Berne ở Thụy Sĩ đến Florence ở Italy, đã bị vài gia đình kiểm soát.
Các lãnh tụ của Cách mạng Pháp và, sau đó, Napoleon đã xuất khẩu cách mạng sang các vùng đất này, tiêu diệt chính thể chuyên chế, chấm dứt các quan hệ đất đai phong kiến, xóa bỏ các phường hội, và áp đặt sự bình đẳng trước luật – quan niệm quan trọng nhất về pháp trị, mà chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn nhiều ở chương tiếp theo. Cách mạng Pháp như thế đã chuẩn bị không chỉ nước Pháp mà phần lớn của phần còn lại của châu Âu cho các thể chế bao gồm và sự tăng trưởng kinh tế mà những thể chế này khích lệ.
Như chúng ta đã thấy, hoảng sợ bởi những diễn biến ở Pháp, nhiều cường quốc Âu châu đã tổ chức xung quanh Áo năm 1792 để tấn công Pháp, bề ngoài là để giải thoát Vua Louis XVI, nhưng trên thực tế là để nghiền nát Cách mạng Pháp. Sự kỳ vọng đã là, các đội quân thay thế tạm thời được cách mạng đưa ra chiến trường sẽ mau chóng tan rã. Nhưng sau vài thất bại ban đầu, các đội quân của Cộng hòa Pháp mới đã chiến thắng trong một cuộc chiến tranh tự vệ lúc ban đầu. Đã có những vấn đề tổ chức quan trọng phải khắc phục. Nhưng Pháp đã đi trước các nước khác về một đổi mới chủ yếu: chế độ cưỡng bách tòng quân hàng loạt. Được đưa ra trong tháng Tám 1793, chế độ cưỡng bách tòng quân hàng loạt đã cho phép những người Pháp đưa ra chiến trường các đội quân lớn và tạo một lợi thế quân sự sắp đạt ưu thế tối cao ngay cả trước khi tài năng quân sự nổi tiếng của Napoleon xuất hiện.
Thành công quân sự ban đầu đã khuyến khích ban lãnh đạo của nền Cộng hòa để mở rộng biên giới của Pháp, với một con mắt hướng tới việc tạo ra một vùng đệm hữu hiệu giữa nền cộng hòa mới và các quốc vương thù địch của Phổ và Áo. Những người Pháp nhanh chóng chiếm Hà lan thuộc Áo và các Tỉnh Hợp nhất, về cơ bản là Bỉ và Hà Lan ngày nay. Những người Pháp cũng đã tiếp quản phần lớn của Thụy Sĩ hiện đại ngày nay. Ở cả ba nơi, những người Pháp đã có sự kiểm soát mạnh mẽ suốt các năm 1790.
 Đức ban đầu đã bị tranh giành một cách nóng bỏng. Nhưng vào 1795, những người Pháp đã có sự kiểm soát vững vàng trên vùng Rhineland, phần phía tây của nước Đức nằm bên bờ trái của Sông Rhine. Những người Phổ đã buộc phải thừa nhận sự thực này dưới Hiệp ước Basel. Giữa 1795 và 1802, những người Pháp đã giữ Rhineland, nhưng không giữ bất cứ phần nào khác của Đức. Trong năm 1802 Rhineland đã chính thức hợp nhất vào Pháp.
Italy đã vẫn là trung tâm chính của chiến tranh trong nửa thứ hai của các năm 1790, với những người Áo như các địch thủ. Savoy bị sáp nhập vào Pháp năm 1792, và đã dẫn đến một sự bế tắc cho đến cuộc xâm lấn của Napoleon vào tháng Tư 1796. Trong chiến dịch lớn trên đại lục đầu tiên của mình, vào đầu năm 1797, Napoleon đã chinh phục hầu như toàn bộ Bắc Italy, trừ Venice, mà đã bị những người Áo chiếm. Hiệp ước Campo Formio, được ký với những người Áo trong tháng Mười 1797, đã chấm dứt Chiến tranh của Liên Minh Thứ nhất và đã công nhận nhiều nền cộng hòa do Pháp kiểm soát ở Bắc Italy. Tuy vậy, những người Pháp đã tiếp tục để mở rộng sự kiểm soát của họ trên Italy ngay cả sau hiệp ước này, xâm chiếm Các Lãnh địa Giáo hoàng (Papal State) và thiết lập Cộng hòa Roman tháng Ba 1798. Tháng Giêng 1799, Naples bị chinh phục và Cộng hòa Parthenopean được tạo ra. Với sự ngoại lệ của Venice, mà vẫn thuộc Áo, những người Pháp bây giờ đã kiểm soát toàn bộ bán đảo Italy hoặc một cách trực tiếp, như trong trường hợp của Savoy, hay thông qua các quốc gia chư hầu, như các nền cộng hòa Cisalpine, Ligurian, Roman, và Parthenopean.
Đã có thêm sự tới lui trong Chiến tranh Liên Minh Thứ Hai, giữa 1798 và 1801, nhưng cuộc này đã chấm dứt với người Pháp về cơ bản vẫn giữ sự kiểm soát. Các đội quân Cách mạng Pháp mau chóng đã bắt đầu thực hiện một quá trình cải cách triệt để trong các vùng mà họ đã chinh phục, xóa bỏ các vết tích còn lại của chế độ nông nô và các quan hệ đất đai phong kiến và áp đặt sự bình đẳng trước luật. Giới tăng lữ bị tước mất địa vị đặc biệt và quyền lực, và các phường hội ở các vùng đô thị bị tiệt trừ hay nói nhẹ đi là bị làm yếu đi rất nhiều. Việc này đã xảy ra ở Hà Lan thuộc Áo ngay sau cuộc xâm lấn của Pháp năm 1795 và ở các Tỉnh Hợp nhất, nơi người Pháp đã lập ra Cộng hòa Batavia, với các thể chế chính trị rất giống các thể chế ở Pháp. Ở Thụy Sỹ tình hình đã tương tự, và các phường hội cũng như các chúa phong kiến và Giáo Hội đã bị đánh bại, các đặc quyền phong kiến bị xóa bỏ, và các phường hội bị bãi bỏ và sung công.
Cái đã được bắt đầu bởi các Đội quân Cách mạng Pháp đã được tiếp tục, dưới hình thức này hay hình thức khác, bởi Napoleon. Napoleon đầu tiên và trên hết đã quan tâm đến việc xác lập sự kiểm soát chặt chẽ trên các lãnh thổ ông đã chinh phục. Việc này đôi khi đã dính líu đến việc dàn xếp một thỏa thuận với các elite địa phương hay đặt gia đình và các đồng minh của ông phụ trách, như trong thời gian kiểm soát ngắn Tây Ban Nha và Ba Lan. Nhưng Napoleon cũng đã có một mong muốn chân thật để tiếp tục và làm sâu sắc các cuộc cải cách của cách mạng. Quan trọng nhất, ông đã hệ thống hóa luật La Mã và các tư tưởng về bình đẳng trước luật vào một hệ thống pháp luật mà được biết đến như Bộ Luật [Code] Napoleon. Napoleon đã coi bộ luật này như di sản lớn nhất của ông và đã muốn áp đặt nó ở mọi lãnh thổ ông kiểm soát.
Tất nhiên, những cải cách được áp đặt bởi Cách mạng Pháp và Napoleon đã không phải là không thể bị đảo ngược. Ở một số nơi, như ở Hanover, Đức, các elite cũ đã được phục hồi không lâu sau sự sụp đổ của Napoleon và phần lớn cái những người Pháp đạt được đã bị mất vĩnh viễn. Nhưng ở nhiều nơi khác, chủ nghĩa phong kiến, các phường hội, và giới quý tộc đã bị triệt phá vĩnh viễn hay đã bị làm yếu đi. Thí dụ, ngay cả sau khi người Pháp bỏ đi, trong nhiều trường hợp Code Napoleon vẫn còn hiệu lực.
Xét cho cùng, các đội quân Pháp đã gây ra nhiều đau khổ ở châu Âu, nhưng chúng cũng đã làm thay đổi triệt để tình hình (địa hình địa thế). Trong phần lớn châu Âu đã biến mất các quan hệ phong kiến; quyền lực của các phường hội; sự kiểm soát chuyên chế của các quốc vương và các hoàng thân; sự kìm kẹp của giới tăng lữ đối với quyền lực kinh tế, xã hội, và chính trị; và nền tảng của ancien régime (chế độ cũ), mà đối xử với những người khác nhau theo cách không ngang bằng dựa trên địa vị dòng dõi của họ. Những thay đổi này đã tạo ra loại của các thể chế kinh tế bao gồm mà sau đó cho phép công nghiệp hóa bén rễ ở những nơi này. Vào giữa thế kỷ thứ mười chín, công nghiệp hóa đã tiến triển nhanh trong hầu hết các nơi mà người Pháp kiểm soát, trong khi những nơi như Áo-Hungary và Nga, mà người Pháp đã không chinh phục, hay Ba Lan và Tây Ban Nha, nơi ảnh hưởng Pháp đã là tạm thời và hạn chế, nhìn chung đã vẫn trì trệ.
 TÌM KIẾM TÍNH HIỆN ĐẠI
Vào mùa thu 1867, Ōkubo Toshimichi, một cận thần hàng đầu của lãnh địa phong kiến Satsuma, Nhật bản, đã đi từ thủ đô Edo, Tokyo bây giờ, đến thành phố khu vực Yamaguchi. Ngày 14 tháng Mười ông đã gặp các lãnh đạo của lãnh địa Chōshū. Ông đã có một kiến nghị đơn giản: họ phải kết hợp lực lượng, hành quân về Edo, và lật đổ shogun, nhà cai trị Nhật Bản. Vào lúc này Ōkubo Toshimichi đã thuyết phục được các lãnh đạo của các lãnh địa Tosa và Aki rồi. Một khi các lãnh đạo của Chōshū hùng mạnh đồng ý, một Liên minh Satcho bí mật hình thành.
Trong năm 1868 Nhật Bản đã là một nước chậm phát triển về mặt kinh tế mà đã bị kiểm soát từ 1600 bởi gia đình Tokugawa, mà kẻ cai trị của nó đã lấy tước hiệu shogun (người chỉ huy) trong năm 1603. Hoàng đế Nhật Bản đã bị cho ra ngoài lề và chỉ đảm đương vai trò nghi thức thuần túy. Các sogun Tokugawa đã là các thành viên vượt trội của một tầng lớp chúa phong kiến những người đã cai trị và thu thuế các lãnh địa riêng của họ, giữa chúng là Satsuma, được cai trị bởi gia đình Shimazu. Các lãnh chúa này, cùng với các tùy tùng quân sự của họ, các samurai nổi tiếng, đã vận hành một xã hội mà tương tự như xã hội Âu châu trung cổ, với các loại nghề nghiêm ngặt, những hạn chế thương mại, và các suất thuế cao đối với nông dân. Shogun đã cai trì từ Edo, nơi ông ta độc quyền và kiểm soát ngoại thương và đã cấm những người nước ngoài khỏi đất nước. Các thể chế chính trị và kinh tế đã là khai thác, và Nhật Bản đã nghèo.
Nhưng sự thống trị của shogun đã không hoàn toàn. Ngay cả khi nhà Tokugawa đã tiếp quản đất nước năm 1600, họ đã không thể kiểm soát mọi người. Ở miền nam, lãnh địa Satsuma đã vẫn khá tự trị và thậm chí đã được phép buôn bán với thế giới bên ngoài một cách độc lập qua các Đảo Ryūkyū. Chính là ở thủ đô Satsuma, Kagoshima, nơi Ōkubo Toshimichi đã sinh ra năm 1830. Với tư cách là con trai một samurai, ông cũng đã trở thành một samurai. Tài năng của ông đã được phát hiện ra từ sớm bởi Shimazu Nariakira, lãnh chúa của Satsuma, người đã nhanh chóng cất nhắc ông trong bộ máy quan liêu. Vào lúc đó, Shimazu Nariakira đã đề ra rồi một kế hoạch dùng quân lính Satsuma để lật đổ shogun. Ông đã muốn mở rộng buôn bán với châu Á và châu Âu, xóa bỏ các thể chế kinh tế phong kiến cũ kỹ, và xây dựng một nhà nước hiện đại ở Nhật Bản. Kế hoạch mới sinh của ông đã bị kết liễu sớm bởi cái chết của ông năm 1858. Người kế vị ông, Shimazu Hisamitsu, đã thận trọng hơn, chí ít lúc ban đầu.
Ōkubo Toshimichi bây giờ đã ngày càng được thuyết phục rằng Nhật Bản cần lật đổ chế độ shogun phong kiến, và cuối cùng ông đã thuyết phục được Shimazu Hisamitsu. Để tập hợp sự ủng hộ cho sự nghiệp của họ, họ đã gói ghém nó trong sự phẫn uất cao độ vì việc đẩy hoàng đế ra ngoài lề. Thỏa ước Ōkubo Toshimichi đã ký rồi với lãnh địa Tosa khẳng định rằng “một nước không có hai quốc vương, một nhà không có hai chủ; chính phủ ủy thác cho một nhà cai trị.” Nhưng ý định thực sự đã không đơn giản để khôi phục lại quyền lực cho hoàng đế mà để thay đổi hoàn toàn các thể chế kinh tế và chính trị. Về phía Tosa, một trong những người ký thỏa ước đã là Sakamoto Ryūma. Khi Satsuma và Chōshū đã huy động quân đội của họ, Sakamoto Ryūma đã trình shogun một kế hoạch tám điểm, thúc giục ông từ chức để tránh nội chiến. Kế hoạch đã là cấp tiến, và mặc dù điều 1 tuyên bố rằng “quyền lực chính trị của đất nước phải được trả lại cho Triều Đình Hoàng đế, và mọi sắc lệnh được ban hành bởi Triều Đình,” nó đã bao gồm nhiều hơn chỉ sự khôi phục hoàng đế rất nhiều. Các điều 2, 3, 4, và 5 tuyên bố:
2. Hai cơ quan lập pháp, Thượng viện và Hạ viện, phải được thiết lập, và mọi biện pháp của chính phủ phải được quyết định trên cơ sở ý kiến chung.
3. Những người có năng lực giữa các lãnh chúa, các quý tộc và nhân dân nói chung phải được dùng như các ủy viên hội đồng, và các chức vụ truyền thống của quá khứ mà đã mất mục đích của chúng phải bị bãi bỏ.
4. Công việc đối ngoại phải được thực hiện theo các quy chế thích hợp được soạn ra trên cơ sở ý kiến chung.
5. Luật pháp và các quy định của các thời trước phải được xếp sang một bên và một bộ luật mới và phù hợp phải được chọn.
Shogun Yoshinobu đã đồng ý từ chức, và vào ngày 3 tháng Giêng, 1868, Minh Trị Duy Tân (Meiji Restoration) đã được tuyên bố; Hoàng đế Kōmei và, một tháng sau, sau khi Kōmei chết, con trai ông Meiji đã được phục hồi quyền lực. Mặc dù các lực lượng Satsuma và Chōshū bây giờ đã chiếm Edo và thủ đô đế chế Kyōto, họ đã sợ nhà Tokugawas sẽ thử lấy lại quyền lực và tái lập chế độ shogun. Ōkubo Toshimichi đã muốn nhà Tokugawas bị nghiền nát vĩnh viễn. Ông đã thuyết phục hoàng đế bãi bỏ lãnh địa Tokugawa và sung công đất của họ. Ngày 27 tháng Giêng cựu shogun Yoshinobu đã tấn công các lực lượng Satsuma và Chōshū, và nội chiến đã nổ ra; nó đã diễn ra ác liệt cho đến mùa hè, khi cuối cùng nhà Tokugawa bị đánh bại.
Tiếp sau Minh Trị Duy Tân đã có một quá trình cải cách biến đổi ở Nhật Bản. Năm 1869 chế độ phong kiến bị bãi bỏ, và ba trăm thái ấp đã đầu hàng chính phủ và biến thành các quận, dưới sự kiểm soát của một thủ hiến được chỉ định. Thu thuế được tập trung hóa, và một nhà nước quan liêu hiện đại đã thay thế nhà nước phong kiến cũ. Năm 1869 sự bình đẳng trước luật của mọi tầng lớp xã hội được đưa ra, và các hạn chế về di cư nội địa và thương mại bị bãi bỏ. Tầng lớp samurai được bãi bỏ, mặc dù đã phải đàn áp một số cuộc nổi loạn. Các quyền sở hữu tư nhân về đất đai được đưa ra, và người dân đã được quyền tự do để tham gia và thực hành bất cứ nghề gì. Nhà nước đã trở nên dính líu sâu vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Trái ngược với thái độ của các chế độ chuyên chế đối với đường sắt, trong năm 1869 chế độ Nhật Bản đã thiết lập tuyến tàu thủy hơi nước giữa Tokyo và Osaka và đã xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên giữa Tokyo và Yokohama. Nó cũng đã bắt đầu phát triển công nghiệp chế tác, và Ōkubo Toshimichi, với tư cách bộ trưởng tài chính, đã trông coi phần đầu của một nỗ lực được phối hợp của công nghiệp hóa. Lãnh chúa của lãnh địa Satsuma đã là một nhà lãnh đạo trong việc này, xây dựng các nhà máy cho gốm, súng đại bác, và sợi bông và nhập khẩu máy móc của Anh để tạo ra xưởng kéo sợi bông hiện đại đầu tiên ở Nhật Bản trong năm 1861. Ông cũng đã xây dựng hai xưởng đóng tàu hiện đại. Vào năm 1890 Nhật Bản đã là nước Á châu đầu tiên chấp nhận một hiến pháp thành văn, và nó đã tạo ra một nền quân chủ lập hiến với một quốc hội, Diet, được bầu và một ngành tư pháp độc lập. Những thay đổi này đã là các nhân tố quyết định cho phép Nhật Bản trở thành người hưởng lợi đầu tiên từ Cách mạng Công nghiệp ở châu Á.
 GIỮA THẾ KỶ THỨ MƯỜI CHÍN cả Trung Quốc và Nhật Bản đã là các quốc gia nghèo, tiều tụy dưới các chế độ chuyên chế. Chế độ chuyên chế ở Trung Quốc đã tỏ vẻ nghi ngờ sự thay đổi trong hàng thế kỷ. Mặc dù đã có nhiều sự giống nhau giữa Trung Quốc và Nhật Bản – chế độ shogun Tokugawa cũng đã cấm ngoại thương trong thế kỷ thứ mười bảy, như các hoàng đế Trung Quốc đã cấm trước đó, và đã chống đối sự thay đổi kinh tế và chính trị – cũng đã có những khác biệt chính trị đáng chú ý. Trung Quốc đã là một đế chế quan liêu tập trung được cai trị bởi một hoàng đế chuyên chế. Hoàng đế chắc chắn đã đối mặt với các ràng buộc lên quyền lực của ông ta, mà ràng buộc quan trọng nhất trong số đó đã là sự đe dọa nổi loạn. Trong thời kỳ từ 1850 đến 1864, toàn bộ miền nam Trung Quốc đã bị tàn phá bởi Nổi loạn Thái Bình, trong đó hàng triệu người đã chết hoặc trong xung đột hay qua chết đói hàng loạt. Nhưng sự đối lập với hoàng đế đã không được thể chế hóa.
Cấu trúc của các thể chế chính trị Nhật Bản đã là khác. Chế độ shogun đã dẹp hoàng đế sang bên lề, nhưng như chúng ta đã thấy, quyền lực của nhà Tokugawa đã không phải là tuyệt đối, và các lãnh địa như lãnh địa Satsumas đã duy trì sự độc lập, thậm chí cả khả năng để tiến hành buôn bán với nước ngoài nhân danh chính họ.
Như với Pháp, một hệ quả quan trọng của Cách mạng Công nghiệp Anh đối với Trung Quốc và Nhật Bản đã là tính dễ bị tổn thương quân sự. Trung Quốc đã bị sỉ nhục bởi sức mạnh hải quân Anh trong Chiến tranh Thuốc Phiện Đầu tiên, giữa 1839 và 1842, và cùng mối đe dọa đã trở nên đáng tiếc quá thực tế đối với người Nhật khi các tàu chiến Hoa Kỳ, do Commodore Matthew Perry chỉ huy, đã vào Vịnh Edo trong năm 1853. Thực tế rằng sự lạc hậu kinh tế đã tạo ra sự lạc hậu quân sự đã là một phần của sự thúc đẩy ở đằng sau kế hoạch của Shimazu Nariakira để lật đổ chế độ shogun và khởi động những thay đổi mà cuối cùng đã dẫn đến Minh Trị Duy Tân. Các lãnh đạo của lãnh địa Satsuma đã nhận ra rằng sự tăng trưởng kinh tế – có lẽ thậm chí sự sống sót Nhật Bản – đã có thể đạt được chỉ bằng những cải cách thể chế, nhưng shogun đã chống đối việc này bởi vì quyền lực của ông ta đã gắn với tập hiện tồn của các thể chế. Để đòi hỏi các cuộc cải cách, shogun đã phải bị đánh đổ, và ông đã bị. Tình hình đã tương tự ở Trung Quốc, nhưng các thể chế chính trị ban đầu khác biệt đã làm cho việc lật đổ hoàng đế khó hơn nhiều, việc này đã xảy ra chỉ trong năm 1911. Thay cho cải cách các thể chế, người Trung Quốc đã thử cân sức với người Anh về mặt quân sự bằng cách nhập khẩu vũ khí hiện đại. Những người Nhật đã xây dựng công nghiệp vũ khí của riêng họ.
Như một hệ quả của những khác biệt ban đầu này, mỗi nước đã đáp lại một cách khác nhau đối với những thách thức của thế kỷ thứ mười chín, và Nhật Bản và Trung Quốc đã phân kỳ một cách đầy kịch tính khi đối mặt với bước ngoặt do Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Trong khi các thể chế Nhật Bản đã được biến đổi và nền kinh tế đã bước lên con đường tăng trưởng nhanh, thì ở Trung Quốc các lực thúc đẩy sự thay đổi thể chế đã không đủ mạnh, và các thể chế khai thác đã tồn tại dai dẳng phần lớn không giảm sút cho đến khi chúng đổi sang hướng tồi tệ với cách mạng cộng sản của Mao trong năm 1949.

GỐC RỄ CỦA SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG THẾ GIỚI
Chương này và ba chương trước đã kể câu chuyện về các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm đã nổi lên như thế nào ở nước Anh để làm cho Cách mạng Công nghiệp là có thể, và vì sao một số nước nào đó đã được lợi từ Cách mạng Công nghiệp và đã bước lên con đường tăng trưởng, trong khi các nước khác đã không hay, thực ra, đã kiên quyết từ chối việc cho phép thậm chí sự bắt đầu công nghiệp hóa. Liệu một nước đã có bắt đầu công nghiệp hóa hay không phần lớn đã là một chức năng của các thể chế của nó. Hoa Kỳ, mà đã trải qua một sự biến đổi giống như Cách mạng Vinh quang Anh, đã phát triển rồi kiểu riêng của mình về các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm vào cuối thế kỷ thứ mười tám. Nó như thế trở thành quốc gia đầu tiên để lợi dụng các công nghệ mới đến từ các Đảo Anh, và chẳng bao lâu sau vượt qua Anh và trở thành người mở đường của công nghiệp hóa và thay đổi công nghệ. Australia đã đi theo một con đường tương tự đến các thể chế bao gồm, cho dù hơi muộn hơn và hơi ít được chú ý. Các công dân của nó, hệt như các công dân ở Anh và Hoa Kỳ, đã phải chiến đấu để có được các thể chế bao gồm. Một khi các thể chế này ở đúng vị trí, Australia đã có thể khởi đầu quá trình riêng của mình về tăng trưởng kinh tế. Australia và Hoa Kỳ đã có thể công nghiệp hóa và phát triển nhanh bởi vì các thể chế tương đối bao gồm của họ đã không ngăn chặn các công nghệ mới, sự đổi mới, hay sự phá hủy sáng tạo.
Không phải vậy ở hầu hết các thuộc địa Âu châu khác. Sự năng động của họ là hoàn toàn ngược với sự năng động ở Australia và Hoa Kỳ. Thiếu cư dân bản địa hay tài nguyên để khai thác đã làm cho chủ nghĩa thuộc địa ở Australia và Hoa Kỳ là một loại vấn đề rất khác, cho dù các công dân của chúng đã phải chiến đấu gian khổ cho các quyền chính trị của họ và các thể chế bao gồm. Ở Molucca như ở nhiều nơi khác những người Âu châu đã thuộc địa hóa ở châu Á, ở vùng Caribe, và Nam Mỹ, các công dân đã có ít cơ hội thắng trong một cuộc chiến đấu như vậy. Ở những nơi này, các nhà thuộc địa Âu châu đã áp đặt một kiểu hoàn toàn mới của các thể chế khai thác, hay đã tiếp quản bất cứ các thể chế khai thác nào mà họ tìm thấy, nhằm có khả năng để khai thác các tài nguyên có giá trị, trải từ gia vị, mía đường đến bạc và vàng. Trong nhiều nơi này, họ đã khởi động một tập những thay đổi thể chế mà đã làm cho việc nổi lên của các thể chế bao gồm là rất ít có khả năng. Tại một số trong các nơi này họ đã tiệt trừ một cách tường minh bất cứ ngành công nghiệp đang đâm chồi nào hay các thể chế kinh tế bao gồm nào đã tồn tại. Hầu hết các nơi này không ở trong trạng thái để được lợi từ sự công nghiệp hóa trong thế kỷ thứ mười chín hay thậm chí trong thế kỷ thứ hai mươi.
Sự năng động trong phần còn lại của châu Âu đã cũng hoàn toàn khác với sự năng động ở Australia và Hoa Kỳ. Khi Cách mạng Công nghiệp ở Anh lấy tốc độ vào cuối thế kỷ thứ mười tám, thì hầu hết các nước Âu châu đã bị cai trị bởi các chế độ chuyên chế, được kiểm soát bởi các quốc vương và bởi các giới quý tộc mà nguồn thu nhập chính của họ đã là từ sự chiếm hữu đất đai hay từ các đặc quyền mà họ được hưởng nhờ các rào cản tham gia hết sức cao. Sự phá hủy sáng tạo mà được gây ra bởi quá trình công nghiệp hóa làm xói mòn các khoản lợi nhuận thương mại của các nhà lãnh đạo và lấy đi nguồn lực và lao động khỏi đất đai của họ. Các giới quý tộc cũng là những kẻ thua từ công nghiệp hóa. Quan trọng hơn, họ cũng là những kẻ thua chính trị, vì quá trình công nghiệp hóa không nghi ngờ gì sẽ tạo ra bất ổn định và các thách thức chính trị đối với sự độc quyền của họ về quyền lực chính trị.
Nhưng những sự chuyển đổi thể chế ở Anh và Cách mạng Công nghiệp đã tạo ra các cơ hội và những thách thức mới cho các nhà nước Âu châu. Mặc dù đã có chính thể chuyên chế ở Tây Âu, khu vực này cũng đã chia sẻ nhiều sự trôi dạt thể chế mà đã tác động đến Anh trong thiên niên kỷ trước. Nhưng tình hình đã rất khác ở Đông Âu, Đế chế Ottoman, và Trung Quốc. Những sự khác biệt này đã là quan trọng cho việc phổ biến công nghiệp hóa. Hệt như Cái Chết Đen hay sự nổi lên của thương mại Đại Tây Dương, bước ngoặt do công nghiệp hóa tạo ra đã làm sâu sắc thêm sự xung đột từng luôn hiện diện về các thể chế ở nhiều quốc gia Âu châu. Một nhân tố chủ yếu đã là Cách mạng Pháp năm 1789. Sự chấm dứt chính thể chuyên chế ở Pháp đã mở đường cho các thể chế bao gồm, và những người Pháp cuối cùng đã bước lên con đường công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế nhanh. Cách mạng Pháp thực ra đã làm nhiều hơn thế. Nó đã xuất khẩu các thể chế của mình bằng cách xâm chiếm và cải cách bằng vũ lực các thể chế khai thác của nhiều nước láng giềng. Nó như thế đã mở đường cho công nghiệp hóa không chỉ ở Pháp, mà ở Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ, và các phần của Đức và Italy. Xa hơn sang phía đông sự phản ứng đã giống với phản ứng sau Cái Chết Đen, khi, thay cho sụp đổ, chế độ phong kiến đã được tăng cường. Áo-Hungary, Nga, và Đế chế Ottoman đã tụt hậu thậm chí thêm về kinh tế, nhưng các nền quân chủ chuyên chế của họ đã tìm được cách để tồn tại cho đến Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất.
Ở nơi khác trên thế giới, chính thể chuyên chế đã có sức bật như ở Đông Âu. Điều này đã đặc biệt đúng ở Trung Quốc, nơi sự chuyển tiếp Minh-Thanh đã dẫn đến một nhà nước cam kết xây dựng một xã hội nông nghiệp ổn định và thù địch với thương mại quốc tế. Nhưng cũng đã có những sự khác biệt thể chế mà đã là quan trọng ở châu Á. Nếu Trung Quốc đã phản ứng lại với Cách mạng Công nghiệp như Đông Âu đã phản ứng, thì Nhật Bản đã phả ứng theo cùng cách như Tây Âu. Hệt như ở Pháp, nó đã cần đến một cuộc cách mạng để thay đổi hệ thống, lần này là cuộc cách mạng được lãnh đạo bởi các lãnh chúa phản đạo của các lãnh địa Satsuma, Chōshū, Tosa, và Aki. Các lãnh chúa này đã lật đổ shogun, tạo ra Minh Trị Duy Tân, và đã chuyển Nhật Bản lên con đường cải cách thể chế và tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta cũng đã thấy rằng chính thể chuyên chế đã có sức bật ở Ethiopia cô lập. Ở nơi khác trên lục địa, chính cùng lực của thương mại quốc tế mà đã giúp biến đổi các thể chế Anh trong thế kỷ thứ mười bảy, lại đã siết chặt các phần lớn của miền tây và trung châu Phi vào các thể chế hết sức khai thác thông qua buôn bán nô lệ. Việc này đã phá hủy các xã hội ở một số nơi và đã dẫn đến việc tạo ra các nhà nước nô dịch khai thác ở một số nơi khác. Động học thể chế mà chúng ta mô tả cuối cùng đã xác định những nước nào tận dụng được lợi thế của các cơ hội hiện diện trong thế kỷ thứ mười chín trở đi và những nước nào đã không làm như vậy. Gốc rễ của sự bất bình đẳng thế giới mà chúng ta quan sát thấy ngày nay có thể thấy trong sự phân kỳ này. Với vài ngoại lệ, các nước giàu ngày nay là các nước đã bước chân vào quá trình công nghiệp hóa và thay đổi công nghiệp bắt đầu trong thế kỷ thứ mười chín, và các nước nghèo là các nước đã không làm vậy.
·                                  
11.VÒNG THIỆN
BỘ LUẬT ĐEN
LÂU ĐÀI WINDSOR, nằm đúng tây London, là một trong những dinh thự hoàng gia lớn của nước Anh. Đầu thế kỷ thứ mười tám, lâu đài đã được bao quanh bởi một rừng lớn, đầy nai, mặc dù cảnh này chẳng còn mấy ngày nay. Một trong những người gác rừng trong năm 1722, Baptist Nunn, đã bị kẹt vào một xung đột hung tợn. Ngày 27 tháng Sáu, ông đã ghi chép,
Những kẻ mặt đen đến vào ban đêm đã bắn về phí tôi 3 lần 2 viên đạn vào cửa sổ phòng tôi và [tôi] đã đồng ý trả chúng 5 guinea tại Crowthorne vào ngày 30.
Một mục khác trong nhật ký của Nunn ghi, “Một sự ngạc nhiên mới. Đã xuất hiện một người được cải trang với một thông điệp phá hoại.”
Ai đã là những “Kẻ Mặt Đen [Black]” bí ẩn này gây ra những đe dọa, bắn vào phía Nunn, và đòi tiền? Các Black đã là các nhóm các đàn ông địa phương những người đã bôi đen mặt mình để che giấu diện mạo của họ vào ban đêm. Chúng đã xuất hiện rộng ngang miền nam nước Anh trong thời kỳ này, giết và làm tàn tật nai và các thú vật khác, đốt các đống rơm và các kho thóc, và phá hoại hàng rào và các hồ cá. Theo bề ngoài đã là tình trạng vô luật pháp hoàn toàn, nhưng không phải. Việc săn (săn trộm) bất hợp pháp nai ở các vùng đất sở hữu bởi nhà vua và các thành viên khác của giới quý tộc đã xảy ra từ lâu. Trong các năm 1640, trong Nội Chiến, toàn bộ số nai ở Lâu đài Windsor đã bị giết. Sau sự Khôi phục năm 1660, khi Charles II lên ngôi, nai đã được nuôi lại ở công viên. Nhưng các Black đã không chỉ săn trộm nai để ăn; chúng cũng đã cố tình phá hoại. Vì mục đích gì?
Một khối xây dựng (building block) cốt yếu của Cách mạng Vinh quang năm 1688 đã là bản chất đa nguyên của các lợi ích được đại diện trong Quốc hội. Chẳng ai trong giới các nhà buôn, nhà công nghiệp, quý tộc nhỏ, hay quý tộc đã liên minh với William xứ Orange và sau đó với các quốc vương Hanoverian, người đã kế vị Nữ hoàng Anne năm 1714, đã đủ mạnh để áp đặt ý chí của họ một cách đơn phương.
Các nỗ lực để phôi phục nền quân chủ Stuart đã tiếp tục suốt phần lớn thế kỷ thứ mười tám. Sau cái chết của James II năm 1701, con trai ông, James Francis Edward Stuart, “Người Đòi [kế vị] Già,” đã được công nhận là người thừa kế hợp pháp ngôi Vua Anh bởi Pháp, Tây Ban Nha, giáo hoàng, và những người ủng hộ nền quân chủ Stuart ở nước Anh và Scotland, những người được gọi là các Jacobite. Năm 1708 Người Đòi Già đã thử lấy lại ngai vàng với sự giúp đỡ của binh lính Pháp, nhưng đã không thành công. Trong các thập niên tiếp sau đã có nhiều cuộc nổi loạn Jacobite, kể cả các cuộc lớn trong các năm 1715 và 1719. Trong các năm 1745–46, con trai của Người Đòi Già, Charles Edward Stuart, “Người Đòi Trẻ,” đã thử chiếm lại ngai vàng, nhưng các lực lượng của ông đã bị quân đội Anh đánh bại.
Đảng chính trị Whig, mà như chúng ta đã thấy (trang 210-211), được thành lập trong các năm 1670 để đại diện cho các lợi ích buôn bán và kinh tế mới, đã là tổ chức chính ở đằng sau Cách mạng Vinh quang, và các đảng viên Whig đã chi phối Quốc hội từ 1714 đến 1760. Một khi đã nắm quyền lực, họ đã thử sử dụng vị trí mới kiếm được của mình để (săn) làm hại các quyền của những người khác, để cũng có miếng bánh của mình để ăn. Họ đã chẳng khác các vua Stuart, nhưng quyền lực của họ đã còn xa mới tuyệt đối. Nó đã bị ràng buộc cả bởi các nhóm cạnh tranh ở Quốc hội, đặc biệt Đảng Tory mà đã được thành lập để đối lại Đảng Whig, lẫn bởi chính các thể chế mà họ đã chiến đấu để đưa vào nhằm củng cố Quốc hội và ngăn chặn sự nổi lên của chính thể chuyên chế mới và sự quay lại của nhà Stuart. Bản chất đa nguyên của xã hội mà đã nổi lên từ Cách mạng Vinh quang cũng đã có nghĩa rằng dân cư nói chung, ngay cả những người không có sự đại diện chính thức trong Quốc hội, đã được trao quyền, và “sự bôi đen mặt-blacking” đã chính xác là một phản ứng bởi người dân thường đối với cảm nhận rằng các đảng viên Whig đã lợi dụng địa vị của họ.
Vụ của William Cadogan, một tướng thành công trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha giữa 1701 và 1714 và trong đàn áp các cuộc nổi loạn Jacobite, minh họa loại xâm phạm các quyền của người dân thường bởi các đảng viên Whig mà đã dẫn đến sự bôi đen mặt. George I đã phong Cadogan làm một nam tước năm 1716 và rồi một bá tước năm 1718. Ông cũng đã là một thành viên có ảnh hưởng của Hội đồng Nhiếp chính Thượng Thẩm (Regency Council of Lords Justices), mà chủ trì công việc chính của nhà nước, và ông đã phục vụ với tư cách quyền tổng chỉ huy. Ông đã mua một bất động sản lớn khoảng một ngàn mẫu (acre) tại Caversham, khoảng hai mươi dặm phía tây Windsor. Ở đó ông đã xây một tòa nhà lớn và các vườn trang trí công phu và đã sắp đặt một vườn nai 240-mẫu. Thế nhưng tài sản này đã được củng cố bằng việc vi phạm các quyền của những người ở xung quanh. Người dân bị đuổi, và các quyền truyền thống của họ để chăn súc vật và thu gom than bùn và củi đã bị hủy bỏ. Cadogan đã đối mặt với sự phẫn nộ của Những Kẻ Mặt Đen. Ngày 1 tháng Giêng, 1722, và lần nữa trong tháng Bảy, vườn nai đã bị tấn công bất ngờ bởi những Kẻ Mặt Đen (Black) cưỡi ngựa và có vũ trang. Cuộc tấn công đầu tiên giết chết mười sáu con nai. Bá tước Cadogan đã không đơn độc. Bất động sản của nhiều địa chủ có tiếng và các chính trị gia cũng đã bị các Black tấn công.
Chính phủ của đảng Whig đã không để cho việc này yên. Tháng Năm 1723, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Đen (Black Act), đã tạo ra năm mươi tội mới đặc biệt mà đã có thể bị trừng phạt bằng treo cổ. Đạo luật Đen đã quy là tội không chỉ việc mang vũ khí mà cả việc bôi đen mặt. Luật thực ra không lâu sau đã được sửa để khiến cho tội bôi đen mặt có thể bị trừng phạt bằng treo cổ. Các elite Whig đã bắt đầu thực thi luật với sự khoái trá. Baptist Nunn đã tổ chức một mạng lưới những người cung cấp thông tin (kẻ chỉ điểm) ở Rừng Windsor để nhận dạng các Black. Không lâu sau nhiều người đã bị bắt. Sự chuyển tiếp từ việc bắt giữ đến việc treo cổ là chuyện không rắc rối. Rốt cuộc, Đạo luật Đen đã được ban hành rồi, các đảng viên Whig đã chịu trách nhiệm về Quốc hội, Quốc hội đã chịu trách nhiệm về đất nước, và các Black đã hành động ngược trực tiếp với các lợi ích của một số đảng viên Whig hùng mạnh. Thậm chí Sir Robert Walpole, bộ trưởng, rồi thủ tướng – và giống Cadogan, một thành viên khác của Hội đồng Nhiếp chính Thượng Thẩm – đã dính líu vào. Ông đã có lợi ích trong Vườn Richmond ở tây nam London, mà đã được Charles I tạo ra từ đất công. Vườn này cũng đã vi phạm các quyền truyền thống của các cư dân địa phương để chăn súc vật của họ, để săn thỏ rừng và thỏ, và kiếm củi. Nhưng việc chấm dứt các quyền này có vẻ đã được thi hành khá lỏng lẻo, và việc cho súc vật ăn cỏ và săn thú đã vẫn tiếp tục, cho đến khi Walpole đã dàn xếp để con ông trở thành người bảo vệ vườn. Vào lúc này, vườn đã bị đóng, một bức tường mới được dựng lên, và các bẫy người được lắp đặt. Walpole đã thích săn nai, và ông đã có một nhà nghỉ được xây cho bản thân mình tại Houghton, bên trong vườn. Sự hận thù của các Black địa phương mau chóng được châm ngòi.
Ngày 10 tháng Mười Một, 1724, một cư dân địa phương ở bên ngoài vườn, John Huntridge, đã bị buộc tội giúp đỡ những kẻ đánh cắp nai và xúi bẩy các Black quen biết, cả hai tội có thể bị trừng phạt bằng treo cổ. Việc khởi tố Huntridge đã đến từ trên đỉnh, được khởi xướng bởi Hội đồng Nhiếp chính Thượng Thẩm, mà Walpole và Cadogan đã chi phối. Walpole đã đi xa đến mức đích thân ông đã lôi ra bằng chứng về sự phạm tội của Huntridge từ một người cung cấp thông tin, Richard Blackburn. Sự kết tội phải đã là một kết luận bỏ túi được định trước, nhưng đã không thế. Sau một phiên xử kéo dài tám hay chín tiếng đồng hồ, bội thẩm đoàn đã xác minh và tuyên bố Huntridge vô tội, một phần vì lý do thủ tục, vì đã có những sự không theo quy tắc với cách chứng cứ được thu thập.
Không phải tất cả các Black hay những người có cảm tình với họ đã may mắn như Huntridge. Mặc dù một số người khác cũng đã được tha bổng hay đã được giảm hình phạt, nhiều người đã bị treo cổ hay bị đày sang thuộc địa tù được chọn khi đó, Bắc Mỹ; luật thực ra đã lưu lại trên sách luật cho đến khi nó bị hủy bỏ năm 1824. Thế nhưng chiến thắng của Huntridge là đáng chú ý. Bội thẩm đoàn hẳn đã đồng cảm với Walpole. Nhưng đây không còn là thế kỷ thứ mười bảy nữa, nơi Tòa Phòng Ngôi Sao (Court of Star Chamber) đơn thuần theo ý muốn của các quốc vương Stuart và hoạt động như một công cụ đàn áp công khai chống lại các đối thủ của họ, và nơi các vua đã có thể loại bỏ các thẩm phán mà các quyết định của họ đã không được vua thích. Bây giờ các đảng viên Whig cũng đã phải tuân theo pháp trị (rule of law), nguyên lý rằng luật không được áp dụng một cách chọn lọc hay một cách tùy tiện và rằng không ai ở trên pháp luật.
 CÁC SỰ KIỆN bao quanh Bộ Luật Đen cho thấy rằng Cách mạng Vinh quang đã tạo ra pháp trị, và rằng quan niệm này đã mạnh hơn ở Anh và Vương quốc Anh, các elite đã bị ràng buộc bởi nó hơn nhiều mức bản thân họ hình dung. Nhất là, pháp trị (rule of law) không phải cùng một thứ như cai trị bằng pháp luật (rule by law). Cho dù các đảng viên Whig đã có thể thông qua một luật hà khắc, đàn áp tàn bạo để dập tắt các trở lực từ người dân thường, họ đã phải đấu tranh với các ràng buộc thêm bởi vì pháp trị. Luật của họ đã vi phạm các quyền, mà Cách mạng Vinh quang và những thay đổi về các thể chế chính trị, mà tất yếu xảy ra từ nó, đã xác lập rồi, cho tất cả mọi người bằng cách phá bỏ các quyền “thiêng  liêng” của các vua và các đặc quyền của các elite. Pháp trị sau đó đã ngụ ý rằng cả các elite lẫn không-elite như nhau đều chống lại sự thi hành nó.
Pháp trị là một khái niệm rất lạ khi bạn nghĩ về nó trong viễn cảnh lịch sử. Vì sao luật phải được áp dụng ngang nhau cho tất cả mọi người? Nếu nhà vua và giới quý tộc có quyền lực chính trị và phần còn lại không có, thật tự nhiên rằng bất cứ gì là trò chơi ngay thẳng đối với vua và giới quý tộc phải bị cấm và có thể bị trừng phạt đối với những người còn lại. Thực vậy, pháp trị là không thể tưởng tượng nổi dưới các thể chế chính trị chuyên chế. Nó là một tác phẩm của các thể chế chính trị đa nguyên và của các liên minh rộng rãi ủng hộ chủ nghĩa đa nguyên như vậy. Nó đáng xem xét nhất khi nhiều cá nhân và nhóm có một tiếng nói trong các quyết định, và quyền lực chính trị để có một chỗ ngồi quanh bàn, mà ý tưởng rằng họ phải được đối xử một cách công bằng bắt đầu có nghĩa. Vào đầu thế kỷ thứ mười tám, Anh đã trở nên khá đa nguyên, và các elite của đảng Whig nhận ra rằng, vì đã được trân trọng lưu giữ trong quan niệm về pháp trị, luật và các thể chế sẽ ràng buộc cả họ nữa.
Nhưng vì sao các đảng viên Whigs và các nghị sĩ lại tuân thủ những sự kiềm chế như vậy? Vì sao họ đã không dùng quyền kiểm soát của mình đối với Quốc hội và nhà nước để áp đặt việc thi hành không thỏa hiệp Bộ Luật Đen và lật đổ các tòa án khi các quyết định không đi theo cách họ thích? Câu trả lời tiết lộ nhiều về bản chất của Cách mạng Vinh quang – mối liên kết giữa chủ nghĩa đa nguyên và pháp trị, và động học của các vòng thiện (virtuous circle). Như chúng ta đã thấy ở chương 7, Cách mạng Vinh quang đã không phải là sự lật đổ của một giới elite bởi một giới khác, mà là một cuộc cách mạng chống lại chính thể chuyên chế bởi một liên minh rộng bao gồm giới quý tộc nhỏ (gentry), các nhà buôn, và các nhà chế tác cũng như các nhóm của các đảng viên các đảng Whig và Tory. Sự nổi lên của các thể chế chính trị đa nguyên đã là một hệ quả của cuộc cách mạng này. Pháp trị cũng đã nổi lên như một sản phẩm phụ của quá trình này. Với nhiều bên ngồi cạnh bàn chia sẻ quyền lực, đã là tự nhiên để có các luật và các ràng buộc áp dụng cho tất cả họ, để không một bên nào bắt đầu tích lũy quá nhiều quyền lực và cuối cùng làm xói mòn chính các nền tảng của chủ nghĩa đa nguyên. Như thế quan niệm rằng có các giới hạn và các ràng buộc lên những người cai trị, bản chất của pháp trị, đã là phần của logic của chủ nghĩa đa nguyên được sinh ra bởi liên minh rộng rãi mà đã tạo thành phe đối lập với chính thể chuyên chế Stuart.
Dưới ánh sáng này, không ngạc nhiên rằng nguyên lý của pháp trị, kết đôi với quan niệm rằng các vua không có các quyền thiêng liêng nào, đã thực sự là một lý lẽ chủ chốt chống lại chính thể chuyên chế Stuart. Như sử gia Anh E. P. Thompson diễn đạt, trong cuộc đấu tranh chống các vua Stuart:
các nỗ lực phi thường đã được tiến hành … để phóng chiếu hình ảnh của một giai cấp cai trị mà bản thân nó đã buộc phải tuân thủ pháp trị, và mà tính hợp pháp chính đáng của họ đã dựa trên sự bình đẳng và tính phổ quát của các hình thức pháp lý đó. Và những người cai trị, theo ý nghĩa nghiêm túc, bất luận muốn hay không muốn, đã là các tù nhân của rhetoric (từ chương) của chính họ; họ đã chơi các trò chơi quyền lực theo các quy tắc mà hợp với họ, nhưng họ đã không thể phá vỡ các quy tắc đó hoặc toàn bộ trò chơi bị vứt bỏ.
Vứt bỏ trò chơi sẽ làm hệ thống mất ổn định và mở đường cho chính thể chuyên chế bởi một tập con của liên minh rộng rãi hay thậm chí chịu rủi ro của sự quay lại của nhà Stuart. Theo cách nói của Thompson, cái đã ngăn chặn Quốc hội khỏi tạo ra một chính thể chuyên chế mới đã là
lấy luật đi, và đặc quyền hoàng gia … có thể ồ ạt quay lại với các tài sản và cuộc sống của họ.
Hơn nữa,
đã vốn có trong chính bản chất của môi trường mà họ [các quý tộc, các nhà buôn, vân vân chiến đấu với Quốc vương] đã lựa chọn cho sự tự-bảo vệ của chính họ rằng nó đã không thể được dành cho việc sử dụng độc quyền của giai cấp riêng của họ. Luật, trong các hình thức và truyền thống của nó, đã đưa đến các nguyên lý bình đẳng và phổ quát mà … đã phải được mở rộng ra mọi loại và mọi địa vị của những đàn ông.
Một khi đã ở đúng vị trí, quan niệm về pháp trị không chỉ giữ không để cho chính thể chuyên chế lại gần mà cũng đã tạo ra một loại vòng thiện: nếu luật áp dụng một cách bình đẳng cho tất cả mọi người, thì không cá nhân hay nhóm nào, không ngay cả Cadogan hay Walpole, đã có thể leo lên trên luật, và những người dân thường bị buộc tội xâm phạm tài sản tư nhân vẫn đã có quyền đối với một sự xét xử công bằng.
 CHÚNG TA ĐÃ THẤY các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm nổi lên thế nào. Nhưng vì sao chúng tồn tại dai dẳng theo thời gian? Lịch sử của Bộ Luật Đen và các giới hạn cho việc thi hành nó minh họa vòng thiện, một quá trình mạnh mẽ của phản hồi dương mà duy trì các thể chế này đối mặt với các mưu toan làm xói mòn chúng và, thực ra, khởi động các lực dẫn đến tính bao gồm lớn hơn. Logic của các vòng thiện xuất phát một phần từ sự thực rằng các thể chế bao gồm dựa trên các ràng buộc đối với việc sử dụng quyền lực và đối với sự phân chia mang tính đa nguyên của quyền lực chính trị trong xã hội, được lưu giữ một cách linh thiêng trong pháp trị. Khả năng của một tập con để áp đặt ý chí của mình lên những người khác mà không có ràng buộc nào, cho dù những người khác là các công dân bình thường, như Huntridge, đe dọa chính sự cân bằng này. Nếu giả như nó tạm thời bị đình chỉ trong trường hợp các nông dân phản đối chống lại các elite xâm phạm đất công chung của họ, cái gì đảm bảo rằng nó không bị đình chỉ nữa? Và thời gian tiếp theo nó bị đình chỉ, cái gì sẽ ngăn Quốc vương và giới quý tộc khỏi lấy lại cái mà các nhà buôn, các nhà kinh doanh, và giới quý tộc nhỏ đã giành được trong nửa thế kỷ ở giữa? Thực ra, thời gian tiếp theo nó bị đình chỉ, có lẽ toàn bộ dự án của chủ nghĩa đa nguyên bị sụp đổ, bởi vì một tập hẹp của các lợi ích có thể chiếm quyền kiểm soát với sự tổn hại của liên minh rộng. Hệ thống chính trị không thể chịu rủi ro này. Nhưng điều này đã làm cho chủ nghĩa đa nguyên, và pháp trị mà nó ngụ ý, thành các nét đặc trưng bền bỉ của các thể chế chính trị Anh. Và chúng ta sẽ thấy rằng một khi chủ nghĩa đa nguyên và pháp trị đã được xác lập, sẽ có đòi hỏi cho thậm chí chủ nghĩa đa nguyên lớn hơn và sự tham gia lớn hơn vào quá trình chính trị.
Vòng thiện nảy sinh không chỉ từ logic vốn có của chủ nghĩa đa nguyên và pháp trị, mà cũng bởi vì các thể chế chính trị bao gồm có xu hướng ủng hộ các thể chế kinh tế bao gồm. Việc này rồi dẫn đến một sự phân phối thu nhập bình đẳng hơn, trao quyền cho một mảng rộng của xã hội và làm cho sân chơi chính trị còn bằng phẳng hơn. Điều này hạn chế cái một người có thể đạt được bằng cách chiếm đoạt quyền lực chính trị và làm giảm các khuyến khích để tái tạo các thể chế chính trị khai thác. Các nhân tố này đã quan trọng trong sự nổi lên của các thể chế chính trị dân chủ thực sự ở vương quốc Anh.
Chủ nghĩa đa nguyên cũng tạo ra một hệ thống mở hơn và cho phép các phương tiện truyền thông (media) độc lập hưng thịnh, làm cho dễ hơn đối với các nhóm quan tâm đến sự tiếp tục của các thể chế bao gồm để biết và tổ chức chống lại các mối đe dọa đối với các thể chế này. Là hết sức quan trọng rằng nhà nước Anh đã ngừng kiểm duyệt báo chí sau năm 1688. Báo chí đã đóng một vai trò quan trọng tương tự trong trao quyền cho nhân dân nói chung và trong sự tiếp tục vòng thiện của sự phát triển thể chế ở Hoa Kỳ, như chúng ta sẽ thấy trong chương này.
Trong khi vòng thiện tạo ra một xu hướng cho các thể chế bao gồm tồn tại bền bỉ, nó chẳng là không thể tránh khỏi cũng không phải không thể bị đảo ngược. Cả ở vương quốc Anh và ở Hoa Kỳ, các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm đã phải chịu nhiều thách thức. Năm 1745 Người Đòi Trẻ đã đi suốt đến tận Derby, chỉ cách London một trăm dặm, với một đội quân để thủ tiêu các thể chế chính trị đã được rèn đúc trong Cách mạng Vinh quang. Nhưng ông đã bị đánh bại. Quan trọng hơn các thách thức từ bên ngoài, đã là các thách thức tiềm tàng từ bên trong mà có thể cũng đã dẫn đến việc tháo rời các thể chế bao gồm. Như chúng ta đã thấy trong bối cảnh của cuộc Tàn sát Peterloo (trang 207) ở Manchester năm 1819, và như chúng ta sẽ thấy chi tiết hơn tiếp sau, các elite chính trị Anh đã nghĩ đến việc sử dụng sự đàn áp để tránh phải mở thêm hệ thống chính trị, nhưng họ đã rút lui khỏi bờ vực. Tương tự, các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm ở Hoa Kỳ đã đối mặt với các thách thức nghiêm trọng, mà đã có thể tưởng tượng được là thành công, nhưng đã không. Và tất nhiên đã không phải được quyết định trước rằng các thách thức này phải bị thất bại. Nó là nhờ không chỉ vòng thiện mà cũng nhờ sự nhận ra con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử mà các thể chế bao gồm Anh và Hoa Kỳ đã sống sót và trở nên mạnh hơn theo thời gian.
 SỰ TIẾN TRIỂN CHẬM CHẠP CỦA DÂN CHỦ
Sự phản ứng với Bộ Luật Đen đã cho người dân Anh bình thường thấy rằng họ đã có nhiều quyền hơn họ đã nhận ra trước kia. Họ đã có thể bảo vệ các quyền truyền thống và các lợi ích kinh tế của mình trong các tòa án và trong Quốc hội thông qua việc sử dụng các kiến nghị và vận động hành lang. Nhưng chủ nghĩa đa nguyên này đã vẫn chưa mang lại một nền dân chủ hiệu quả. Hầu hết những người đàn ông đã không thể bầu cử; những người đàn bà cũng không; và đã có nhiều sự bất bình đẳng trong những cấu trúc dân chủ hiện hành. Tất cả điều này đã phải thay đổi. Vòng thiện của các thể chế bao gồm không chỉ bảo tồn cái đã đạt được rồi mà cũng mở cửa cho sự bao gồm lớn hơn. Cơ may đã chống lại elite Anh của thế kỷ thứ mười tám duy trì sự kìm kẹp của họ lên quyền lực chính trị mà không có các thách thức nghiêm trọng. Giới elite này đã lên nắm quyền bằng thách thức quyền thiêng liêng của các vua và mở cửa cho sự tham gia của nhân dân vào chính trị, nhưng rồi họ đã trao quyền này chỉ cho một thiểu số nhỏ. Chỉ còn là vấn đề thời gian cho đến khi ngày càng nhiều người dân đòi hỏi quyền tham gia vào các quá trình chính trị. Và trong các năm dẫn tới 1831, họ đã được.
Ba thập niên đầu tiên của thế kỷ thứ mười chín đã chứng kiến sự náo động xã hội gia tăng ở Anh, hầu hết đáp lại những bất bình đẳng kinh tế gia tăng và những đòi hỏi từ quần chúng bị tước quyền bầu cử đòi sự đại diện chính trị lớn hơn. Các cuộc nổi loạn Luddite trong các năm 1811–1816, nơi các công nhân đã đấu tranh chống lại việc đưa các công nghệ mới vào mà họ tin sẽ làm giảm lương của họ, đã được kế tiếp bởi các cuộc nổi loạn đòi các quyền chính trị một cách tường minh, các cuộc Nổi loạn Spa Fields năm 1816 ở London và vụ Thảm sát Peterloo năm 1819 ở Manchester. Trong các cuộc Nổi loạn Swing năm 1830, những người lao động nông nghiệp đã phản đối chống lại mức sống giảm sút cũng như việc đưa công nghệ mới vào. Trong lúc đó, ở Paris, Cách mạng tháng Bảy 1830 đã nổ ra. Sự đồng thuận giữa các elite đã bắt đầu được hình thành rằng sự bất mãn đang lên đến điểm sôi, và cách duy nhất để tháo ngòi nổ náo loạn xã hội, và đẩy lui một cuộc cách mạng, đã là bằng cách thỏa mãn các đòi hỏi của quần chúng và tiến hành cải cách quốc hội.
Sau đó đã không ngạc nhiên rằng cuộc bầu cử 1831 đã hầu như là về một vấn đề duy nhất: cải cách chính trị. Các đảng viên đảng Whig, gần một trăm năm sau Sir Robert Walpole, đã sẵn sàng đáp lại hơn rất nhiều đối với những mong muốn của những người dân thường và đã mở cuộc vận động mở rộng các quyền bầu cử. Nhưng việc này đã chỉ có ý định cho một sự tăng nhỏ về cử tri. Phổ thông đầu phiếu, cho dù chỉ cho đàn ông, đã không có trên chương trình nghị sự. Các đảng viên đảng Whig đã thắng cuộc bầu cử, và lãnh tụ của họ, Earl Grey, trở thành thủ tướng. Earl Grey đã không cấp tiến – còn xa mới vậy. Ông và các đảng viên đảng Whig đã thúc đẩy cải cách không phải bởi vì họ đã nghĩ một quyền bầu cử rộng hơn là công bằng hơn hay bởi vì họ đã muốn chia sẻ quyền lực. Dân chủ Anh đã không được giới elite ban cho. Nó chủ yếu được nắm lấy bởi quần chúng, những người đã được trao quyền bởi các quá trình chính trị xảy ra ở nước Anh và phần còn lại của Vương quốc Anh trong vài thế kỷ qua. Họ đã trở nên bạo dạn hơn bởi những thay đổi về bản chất của các thể chế chính trị do Cách mạng Vinh quang tháo ra. Các cuộc cải cách đã được công nhận bởi vì giới elite đã nghĩ rằng cải cách đã là cách duy nhất để đảm bảo sự tiếp tục cai trị của họ, dẫu cho dưới một hình thức bị bớt đi một chút. Earl Grey, trong bài phát biểu nổi tiếng của ông với Quốc hội ủng hộ cải cách chính trị, đã nói điều này rất rõ:
Không có ai kiên quyết chống lại các Quốc hội từng năm, quyền bầu cử phổ quát và phổ thông đầu phiếu, nhiều hơn tôi. Mục tiêu của tôi không phải là để ủng hộ, mà là để chấm dứt những hy vọng và các dự án như vậy … Nguyên lý cải cách của tôi là, để ngăn chặn sự tất yếu của cách mạng … cải cách để duy trì và không phải để lật đổ.
Nhân dân đã không chỉ muốn bỏ phiếu vì bản thân sự bỏ phiếu mà đã muốn có một chỗ ngồi quanh chiếc bàn để có thể bảo vệ các lợi ích của họ. Điều này đã được hiểu kỹ bởi phong trào Chartist, mà đã lãnh đạo phong trào đòi quyền bầu cử phổ quát sau 1838, lấy tên phong trào từ sự chấp nhận và đòi thực hiện Charter, Hiến Chương của Nhân dân (People’s Charter), được đặt tên để gợi lại một sự tương tự với Magna Carta. J. R. Stephens, một chartist, đã diễn đạt rõ vì sao quyền bầu cử phổ quát, và phiếu bầu cho tất cả công dân, đã là then chốt đối với nhân dân:
Vấn đề quyền bầu cử phổ quát … là một vấn đề dao và nĩa, là vấn đề bánh mỳ và phó mát … bằng quyền bầu cử phổ quát ý tôi muốn nói rằng tất cả mọi người đàn ông làm việc trên đồng ruộng có một quyền đối với một chiếc áo choàng tử tế trên lưng mình, một chiếc mũ tốt trên đầu mình, một cái mái tươm tất để che nhà của mình, một bữa ăn tối ngon trên bàn của mình.
Stephens đã hiểu kỹ rằng quyền bầu cử phổ quát đã là cách lâu bền nhất để trao quyền cho nhân dân Anh thêm nữa và đảm bảo một chiếc áo choàng, một cái mũ, một mái nhà, và một bữa ăn tử tế cho người lao động.
Cuối cùng, Earl Grey đã thành công cả trong bảo đảm việc thông qua Bộ Luật Cải cách Thứ Nhất và trong tháo ngòi nổ của các trào lưu cách mạng mà không phải đi bất cứ bước dài lớn nào theo hướng quyền bầu cử phổ quát của quần chúng. Những cải cách 1832 đã khiêm tốn, chỉ tăng gấp đôi quyền bỏ phiếu từ 8 phần trăm lên khoảng 16 phần trăm của số dân đàn ông (từ khoảng 2 đến 4 phần trăm của toàn bộ dân số). Họ cũng đã thoát khỏi các thành phố tối nát và đã trao sự đại diện độc lập cho các thành phố công nghiệp mới như Manchester, Leeds, và Sheffield. Nhưng việc này vẫn để lại nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Vì thế chẳng bao lâu sau đã có những đòi hỏi thêm về các quyền bầu cử lớn hơn và đã có náo loạn xã hội thêm nữa. Để đáp lại, cải cách thêm sẽ kế tiếp.
Vì sao các elite Anh đã chịu nhượng bộ các đòi hỏi? Vì sao Earl Grey đã cảm thấy rằng cải cách một phần – quả thực một phần rất nhỏ – đã là cách duy nhất để duy trì hệ thống? Vì sao họ đã phải chịu đựng cái xấu ít hơn trong hai cái xấu, cải cách và cách mạng, hơn là duy trì quyền lực của họ mà không có bất cứ cải cách nào? Chẳng phải họ đã có thể làm đúng cái mà các nhà chinh phục Tây Ban Nha đã làm ở Nam Mỹ, cái các quốc vương Áo-Hungary và Nga đã có thể làm trong nhiều thập niên tiếp theo khi những đòi hỏi cải cách đã đến các vùng đất đó, và cái bản thân những người Anh đã làm ở vùng Caribe và ở Ấn Độ: sử dụng vũ lực để dẹp những đòi hỏi? Câu trả lời cho câu hỏi này đến từ vòng thiện. Những thay đổi kinh tế và chính trị mà đã xảy ra rồi ở vương quốc Anh đã làm cho việc sử dụng vũ lực để đàn áp các đòi hỏi này cả là không hấp dẫn đối với elite và ngày càng không khả thi. Như E. P. Thompson đã viết:
Khi các cuộc đấu tranh của các năm 1790–1832 đã báo hiệu rằng sự cân bằng này đã thay đổi, các nhà cai trị của nước Anh đã đối mặt với các lựa chọn khả dĩ gây hoảng sợ. Họ đã có thể hoặc bỏ qua pháp trị, phá hủy các kết cấu hợp hiến tinh vi của họ, hủy bỏ rhetoric (từ chương) của chính họ và cai trị bằng vũ lực; hoặc họ chịu phục tùng các quy tắc của chính họ và từ bỏ quyền lãnh đạo của họ … họ đã đi các bước tập tễnh theo hướng thứ nhất. Nhưng cuối cùng, thay cho việc làm tan self-image (hình tượng về, sự tự nhận thức về bản thân mình) của chính họ và từ chối 150 năm của tính hợp hiến, họ đã đầu hàng luật pháp.
Diễn đạt theo cách khác, cùng các lực mà đã làm cho elite Anh không muốn giật đổ tòa lâu đài pháp trị trong thời Đạo Luật Đen cũng đã làm cho họ lảng xa sự đàn áp và cai trị bằng vũ lực, mà sẽ lại gây rủi ro cho sự ổn định của toàn bộ hệ thống. Nếu sự làm xói mòn luật pháp trong sự cố thử thực thi Bộ Luật Đen đã có thể làm yếu hệ thống mà các nhà buôn, các nhà kinh doanh, và tầng lớp quý tộc nhỏ đã xây dựng trong Cách mạng Vinh quang, thì việc dựng lên một chế độ độc tài đàn áp trong năm 1832 có thể đã làm xói mòn nó hoàn toàn. Thực ra, những người tổ chức các cuộc phản đối đòi cải cách quốc hội đã biết kỹ về tầm quan trọng của pháp trị và tính tượng trưng của nó đối với các thể chế chính trị Anh trong thời kỳ này. Họ đã sử dụng lối tu từ của nó để làm cho điểm này được hiểu thật rõ. Một trong những tổ chức đầu tiên tìm kiếm cải cách quốc hội đã được gọi là Hampden Club, theo tên của thành viên Quốc hội người đầu tiên chống lại Charles I về thuế tiền tàu thủy, một sự kiện quyết định dẫn đến cuộc khởi nghĩa lớn đầu tiên chống lại chính thể chuyên chế Stuart, như chúng ta đã thấy ở chương 7.
Cũng đã có sự phản hồi dương năng động giữa các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm làm cho một tiến trình hành động như vậy là hấp dẫn. Các thể chế kinh tế bao gồm đã dẫn đến sự phát triển của các thị trường bao gồm, đem lại một sự phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, sự khuyến khích lớn hơn để có được giáo dục và các kỹ năng, và thúc đẩy những đổi mới về công nghệ. Tất cả các lực này đã hoạt động ở Anh vào năm 1831. Kiểm soát chặt chẽ những đòi hỏi của nhân dân và làm một cú chống lại các thể chế chính trị bao gồm cũng sẽ phá hủy những lợi ích này, và các elite phản đối sự dân chủ hóa lớn hơn và tính bao gồm lớn hơn có thể thấy mình giữa những người mất gia tài từ sự phá hủy này.
Một khía cạnh khác nữa của sự phản hồi dương này là, dưới các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm, quyền lực kiểm soát đã trở nên ít tập trung hơn. Ở Áo-Hungary và ở Nga, như chúng ta đã thấy ở chương 8, các quốc vương và giới quý tộc đã có nhiều để mất do công nghiệp hóa và cải cách. Ngược lại, ở Anh vào đầu thế kỷ thứ mười chín, nhờ sự phát triển của các thể chế kinh tế bao gồm, cái bị đe dọa đã ít hơn nhiều: đã không có nông nô, tương đối ít sự ép buộc trong thị trường lao động, và ít các độc quyền được bảo vệ bằng các rào cản tham gia. Bám lấy quyền lực như thế đã là ít có giá trị đối với elite Anh.
Logic của vòng thiện cũng đã có nghĩa rằng các bước đàn áp như vậy có thể ngày càng không khả thi, lại bởi vì phản hồi dương giữa các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm. Các thể chế kinh tế bao gồm dẫn đến một sự phân bổ bình đẳng hơn của các nguồn lực so với các thể chế khai thác. Vì thế, chúng trao quyền cho công dân nói chung và như thế tạo ra một sân chơi ngang bằng hơn, ngay cả khi phải đấu tranh vì quyền lực. Việc này làm cho khó hơn đối với một giới elite nhỏ để đè bẹp nhân dân hơn là nhượng bộ các đòi hỏi của họ, hay chí ít một số trong các đòi hỏi ấy. Các thể chế bao gồm của Anh đã cũng gây ra Cách mạng Công nghiệp rồi, và Anh đã được đô thị hóa ở mức cao. Sử dụng đàn áp chống lại một nhóm người đô thị, tập trung, và được tổ chức một phần và được trao quyền là khó hơn rất nhiều so với việc đàn áp nông dân hay các nông nô lệ thuộc.
Vòng thiện như thế đã mang lại cho Anh Bộ Luật Cải cách Thứ Nhất năm 1832. Nhưng đấy đã chỉ là bước đầu. Vẫn còn một con đường dài để đi đến dân chủ thực sự, bởi vì trong năm 1832 elite đã chỉ đưa ra cái họ nghĩ là họ phải và không hơn. Vấn đề cải cách quốc hội đã được tiếp tục bởi phong trào Chartist, mà Hiến chương của Nhân dân năm 1838 đã bao gồm các điều
Một lá phiếu cho mỗi người đàn ông có tuổi từ hai mươi mốt, có đầu óc lành mạnh và không đang chịu hình phạt vì phạm tội.
Sự bỏ phiếu kín. – Để bảo vệ người bỏ phiếu trong thi hành việc bỏ phiếu của mình.
Không có điều kiện tài sản nào cho các thành viên Quốc hội – như thế cho phép các cử tri bầu người họ chọn vào quốc hội, bất luận người ấy giàu hay nghèo.
Trả công cho các thành viên quốc hội, như thế cho phép một thương gia lương thiện, một người lao động, hay cá nhân khác, để phục vụ một khu vực bầu cử, khi phải bỏ công việc của mình để chăm lo cho các lợi ích của Đất nước.
Các khu vực bầu cử bằng nhau, đảm bảo cùng số lượng đại diện cho cùng số người bỏ phiếu, thay cho việc cho phép các khu vực bầu cử nhỏ làm mất tác dụng của các lá phiếu của các khu vực bầu cử lớn.
Quốc hội từng năm, như thế đưa ra sự kiểm soát có hiệu lực nhất đối với sự mua chuộc và sự đe dọa, vì mặc dù một khu vực bầu cử có thể bị mua chuộc một lần trong bảy năm (thậm chí với phiếu bầu), không tiền nào có thể mua chuộc một khu vực bầu cử (dưới hệ thống quyền bầu cử phổ quát) trong mỗi mười hai tháng tiếp sau; và vì các thành viên, khi được bầu chỉ cho một năm, sẽ không có khả năng để coi thường và phản bội các cử tri của mình như bây giờ.
Bằng “phiếu bầu,” họ đã hiểu là bỏ phiếu kín bí mật và chấm dứt bỏ phiếu ngỏ, mà đã tạo thuận lợi cho việc mua chuộc phiếu bầu và sự ép buộc những người bỏ phiếu.
Phong trào Chartist đã tổ chức một loạt các cuộc biểu tình quần chúng, và suốt thời kỳ này Quốc hội đã liên tục thảo luận khả năng cho những cải cách thêm. Mặc dù phong trào Chartist đã tan rã sau 1848, nó được kế tiếp bởi Liên Minh Cải Cách Quốc gia (National Reform Union), được thành lập năm 1864, và Liên Đoàn Cải Cách (Reform League), được thành lập năm 1865. Tháng Bảy 1866, các cuộc nổi loạn lớn ủng hộ cải cách ở Hyde Park đã đưa cải cách lên đỉnh chương trình nghị sự chính trị một lần nữa. Áp lực này đã sinh lời dưới dạng Đạo Luật Cải Cách Thứ Hai năm 1867, trong đó toàn bộ cử tri đã tăng gấp đôi và những người bỏ phiếu giai cấp lao động đã trở thành đa số trong tất cả các khu vực bầu cử đô thị. Không lâu sau đó bỏ phiếu kín bí mật đã được đưa ra và các bước được tiến hành để loại bỏ các tập quán bầu cử thối nát như “thết đãi” (về bản chất là mua phiếu bầu trong trao đổi mà người đi bầu nhận được một sự thết đãi, thường là tiền, thức ăn, hay rượu). Toàn bộ cử tri lại tăng gấp đôi lần nữa bởi Bộ Luật Cải Cách Thứ Ba năm 1884, khi 60 phần trăm đàn ông trưởng thành đã có quyền bầu cử. Tiếp theo Chiến tranh Thế giới lần Thứ Nhất, Bộ luật Đại diện của Nhân dân năm 1918 đã trao quyền bầu cử cho tất cả đàn ông trên tuổi hai mươi mốt, và những người đàn bà trên tuổi ba mươi là người đóng thuế hay kết hôn với người đóng thuế. Cuối cùng, tất cả các phụ nữ cũng đã nhận được quyền bầu cử theo cùng điều kiện như đàn ông trong năm 1928. Các biện pháp của năm 1918 đã được thương lượng trong chiến tranh và đã phản ánh một quid pro quo (sự đền đáp lại) giữa chính phủ và các giai cấp lao động, những người đã cần đến để chiến đấu và sản xuất đạn được. Chính phủ có thể cũng đã lưu ý về chủ nghĩa cấp tiến của Cách mạng Nga.
Song song với sự phát triển từ từ của các thể chế chính trị bao gồm hơn đã là một phong trào hướng đến các thể chế kinh tế còn bao gồm hơn nữa. Một hệ quả lớn của Đạo luật Cải cách thứ Nhất đã là bãi bỏ Luật Ngô năm 1846. Như chúng ta đã thấy ở chương 7, Luật Ngô đã cấm nhập khẩu thóc lúa và ngũ cốc, giữ giá của chúng cao và bảo đảm các khoản lợi nhuận béo bở cho các địa chủ lớn. Các nghị sĩ mới từ ManchesterBirmingham đã muốn ngô rẻ và và lương thấp. Họ đã thắng, và các nhóm lợi ích sở hữu đất đã bị một thất bại lớn.
Những sự thay đổi về toàn bộ cử tri và các chiều kích khác của các thể chế chính trị xảy ra trong tiến trình của thế kỷ thứ mười chín đã được tiếp theo bởi những cải cách thêm. Năm 1871 thủ tướng Gladstone, người theo đảng Tự do (Liberal), đã mở nền công vụ cho sự xem xét công chúng, biến nó thành chế độ tài năng đắc dụng (meritocracy), và như thế tiếp tục quá trình tập trung hóa chính trị và xây dựng các thể chế nhà nước mà đã bắt đầu trong thời kỳ Tudor. Các chính phủ Liberal và Tory trong thời kỳ này đã đưa ra một lượng đáng kể pháp luật về thị trường lao động. Thí dụ các Bộ Luật Người chủ và Người hầu (Masters và Servants Acts), mà đã cho phép những người sử dụng lao động sử dụng luật để làm giảm tính di động của những người lao động của họ, đã bị bãi bỏ, làm thay đổi bản chất của các mối quan hệ lao động có lợi cho người lao động. Trong giai đoạn 1906–1914, Đảng Tự do (Liberal Party), dưới sự lãnh đạo của H. H. Asquith và David Lloyd George, đã bắt đầu sử dụng nhà nước để cung cấp nhiều dịch vụ công hơn, kể cả bảo hiểm y tế và thất nghiệp, lương hưu do chính phủ trả, lương tối thiểu, và cam kết đối với việc đánh thuế tái phân phối. Như một kết quả của những thay đổi tài khóa này, các khoản thuế với tư cách là một phần của sản phẩm quốc gia đã tăng hơn gấp đôi trong ba thập niên cuối cùng của thế kỷ thứ mười chín, và sau đó lại tăng gấp đôi trong ba thập niên đầu của thế kỷ thứ hai mươi. Hệ thống thuế cũng đã trở nên “lũy tiến” hơn, sao cho những người giàu có hơn chịu gánh nặng thuế nặng hơn.
Trong lúc đó, hệ thống giáo dục, mà trước kia chủ yếu cho elite, được vận hành bởi các giáo phái, hay đòi hỏi người nghèo trả học phí, đã được biến thành dễ tiếp cận hơn cho nhân dân; Luật Giáo dục năm 1870 đã giao cho chính phủ cung ứng một cách có hệ thống sự giáo dục phổ quát lần đầu tiên. Giáo dục đã trở nên miễn phí năm 1891. Tuổi rời nhà trường (school-leaving age) được quy định ở tuổi mười một trong năm 1893. Năm 1899 nó được tăng lên mười hai, và các điều khoản đặc biệt cho con cái các gia đình neo đơn đã được đưa ra. Như một kết quả của những thay đổi này, tỷ lệ của trẻ mười tuổi nhập học, mà đã ở mức đáng thất vọng 40 phần trăm trong năm 1870, đã tăng lên 100 phần trăm năm 1900. Cuối cùng, Bộ Luật Giáo dục năm 1902 đã dẫn đến một sự mở rộng lớn về các nguồn lực cho các trường học và việc đưa vào các trường grammar school (trung học phổ thông), mà sau đó đã trở thành nền tảng của giáo dục trung học ở Anh.
Thực ra, thí dụ Anh, một minh họa về vòng thiện của các thể chế bao gồm, cung cấp một thí dụ về một “vòng thiện từ từ.” Những sự thay đổi chính trị một cách không thể nhầm lẫn đã hướng tới các thể chế chính trị bao gồm hơn và đã là kết quả của những đòi hỏi từ nhân dân được trao quyền. Nhưng chúng đã cũng từ từ từng bước một. Mỗi thập niên một bước nữa, đôi khi nhỏ hơn, đôi khi lớn hơn, đã được tiến hành hướng tới dân chủ. Đã có xung đột về mỗi bước, và kết quả của mỗi bước đã tùy thuộc ngẫu nhiên. Nhưng vòng thiện đã tạo ra các lực mà đã làm giảm tiền đánh cược dính líu đến việc bám lấy quyền lực. Nó cũng đã thúc đẩy pháp trị, làm cho khó hơn để sử dụng vũ lực chống lại những người đòi hỏi cái mà bản thân các elite đã đòi hỏi từ các vua Stuart. Đã trở nên ít có khả năng rằng sự xung đột này sẽ biến thành một cuộc cách mạng dốc toàn lực và có khả năng hơn rằng nó được giải quyết ủng hộ cho tính bao gồm lớn hơn. Có một đức hạnh tuyệt vời trong loại thay đổi từ từ này. Đối với elite nó ít đe dọa hơn sự lật đổ toàn bộ hệ thống. Mỗi bước là nhỏ, và có lý để nhượng bộ một đòi hỏi nhỏ, hơn là tạo ra một sự thử thách lớn. Điều này giải thích một phần làm sao Luật Ngô bị bãi bỏ mà không có xung đột nghiêm trọng hơn. Vào năm 1846 các địa chủ đã không còn có thể kiểm soát việc lập pháp trong Quốc hội. Đấy đã là một kết quả của Bộ Luật Cải cách thứ Nhất. Tuy vậy, nếu giả như trong năm 1832 sự mở rộng toàn bộ cử tri, việc cải cách các thành phố thối nát, và việc bãi bỏ Luật Ngô tất cả đã đều trên bàn nghị sự, thì các địa chủ đã đưa ra sự chống cự nhiều hơn nhiều. Sự thực rằng đầu tiên đã có những cải cách chính trị hạn chế và rằng sự bãi bỏ Luật Ngô chỉ nằm trên chương trình nghị sự muộn hơn, đã tháo ngòi nổ xung đột.
Sự thay đổi từ từ cũng đã chặn việc liều mạng lao vào các vùng lãnh thổ chưa được khám phá. Một sự lật đổ dữ dội hệ thống có nghĩa là cái gì đó hoàn toàn mới phải được xây dựng để thế chỗ cho cái bị thủ tiêu. Đấy đã là trường hợp của Cách mạng Pháp, khi thử nghiệm đầu tiên với dân chủ đã dẫn đến Khủng bố và sau đó quay lại nền quân chủ hai lần trước khi cuối cùng dẫn đến nền Cộng hòa Pháp Thứ Ba vào năm 1870. Nó đã là trường hợp của Cách mạng Nga, nơi các mong mỏi của nhiều người cho một hệ thống công bằng hơn hệ thống của Đế chế Nga, đã dẫn đến một chế độ độc tài độc đảng mà đã hung bạo, khát máu, và đồi bại hơn chế độ nó đã thay thế rất nhiều. Cải cách từ từ đã là khó trong các xã hội này chính xác bởi vì chúng thiếu chủ nghĩa đa nguyên và đã hết sức khai thác. Chính chủ nghĩa đa nguyên nổi lên từ Cách mạng Vinh quang, và pháp trị mà nó đưa vào, đã là cái làm cho sự thay đổi từ từ là khả thi, và đáng mong muốn, ở Anh.
Nhà bình luận Anh bảo thủ Edmund Burke, người kiên định chống Cách mạng Pháp, đã viết trong năm 1790, “Với sự thận trọng vô hạn rằng bất cứ ai nên liều mạng phá đổ một tòa lâu đài, mà đã đáp ứng cho các mục đích chung của xã hội theo bất cứ mức độ có thể chịu được nào từ bao đời nay, hay dựng lại nó lên mà không có các mô hình và các hình mẫu về tính hữu dụng đã được chứng minh trước mắt mình.” Burke đã sai về bức tranh lớn. Cách mạng Pháp đã thay thế tòa lâu đài thối nát và đã mở đường cho các thể chế bao gồm không chỉ ở Pháp, mà khắp phần lớn Tây Âu. Nhưng sự thận trọng của Burke đã không phải hoàn toàn không chính xác. Quá trình từ từ của cải cách chính trị Anh, mà đã bắt đầu trong năm 1688 và đã lấy được nhịp ba thập niên sau cái chết của Burke, đã có hiệu quả hơn bởi vì bản chất từ từ của nó đã làm cho nó hùng mạnh hơn, khó hơn để kháng cự, và cuối cùng lâu bền hơn.
 LÀM VỠ TAN CÁC TRUST
Các thể chế bao gồm ở Hoa Kỳ đã có gốc rễ của chúng trong các cuộc đấu tranh ở Virginia, Maryland, và Carolinas trong thời kỳ thuộc địa (trang 19-28). Các thể chế này đã được tăng cường bởi Hiến Pháp Hoa Kỳ, với hệ thống các ràng buộc của nó và sự tách rời của các quyền lực. Nhưng Hiến pháp đã không đánh dấu sự chấm dứt sự phát triển các thể chế bao gồm. Hệt như ở Anh, các thể chế này đã được tăng cường bởi một quá trình phản hồi dương, dựa trên vòng thiện.
Vào giữa thế kỷ thứ mười chín, tất cả các đàn ông da trắng đã có thể bầu cử ở Hoa Kỳ, mặc dù các phụ nữ và những người da đen đã không. Các thể chế kinh tế đã trở nên bao gồm hơn – thí dụ, với sự thông qua của Bộ Luật Trang Ấp (Homestead Act) trong năm 1862 (trang 37), mà đã làm cho đất biên cương sẵn có cho các nhà định cư tiềm năng, hơn là phân bổ các vùng đất này cho các elite chính trị. Nhưng hệt như ở Anh, các thách thức đối với các thể chế bao gồm đã chẳng bao giờ hoàn toàn vắng mặt. Sự kết thúc của Nội Chiến Hoa Kỳ đã khởi xướng một đợt tăng tốc tăng trưởng kinh tế ở miền Bắc. Khi đường sắt, công nghiệp, và thương mại mở rộng, một vài người đã kiếm được số tiền lớn kếch xù. Được làm cho bạo dạn bởi thành công kinh tế của họ, những người này và các công ty của họ đã trở nên ngày càng vô lương tâm. Họ đã được gọi là các Robber Baron (Trùm Kẻ Cướp) bởi vì các tập quán kinh doanh cứng cỏi của họ đã nhắm đến củng cố các độc quyền và ngăn trở bất cứ đối thủ cạnh tranh tiềm năng nào tham gia vào thị trường hay tiến hành kinh doanh trên quan hệ bình đẳng. Một trong những kẻ khét tiếng nhất của những người này đã là Cornelius Vanderbilt, người đã nhận xét một cách nổi tiếng, “Tôi quan tâm gì đến Luật pháp? Tôi không có quyền lực ư?”
Một người khác đã là John D. Rockefeller, người đã khởi xướng Công ty Standard Oil năm 1870. Ông đã nhanh chóng loại trừ các đối thủ ở Cleveland và đã thử độc quyền hóa giao thông và và bán lẻ dầu và các sản phẩm dầu. Vào năm 1882 đông đã tạo ra một độc quyền đồ sộ – theo ngôn ngữ ngày đó, một trust. Vào năm 1890 Standard Oil đã kiểm soát 88 phần trăm dầu tinh chế chảy ở Hoa Kỳ, và Rockefeller đã trở thành tỷ phú đầu tiên trên thế giới trong năm 1916. Các tranh biếm họa đương thời vẽ Standard Oil như một con bạch tuộc quấn các vòi không chỉ quanh công nghiệp dầu mà cả Capitol Hill, tòa nhà Quốc hội, nữa.
Hầu như cũng khét tiếng thế đã là John Pierpont Morgan, người sáng lập tổ hợp độc quyền (conglomerate) ngân hàng J.P. Morgan, mà muộn hơn, sau nhiều cuộc sáp nhập trong hàng thập niên, cuối cùng đã trở thành JPMorgan Chase. Cùng với Andrew Carnegie, Morgan đã thành lập Công ty Thép Hoa Kỳ (U.S. Steel Company) năm 1901, công ty đầu tiên với giá trị thị trường hóa hơn 1 tỷ $ và đã là công ty thép lớn nhất thế giới, bỏ xa các công ty khác. Trong các năm 1890, các trust lớn đã bắt đầu nổi lên gần như ở mọi khu vực của nền kinh tế, và nhiều trong số chúng kiểm soát hơn 70 phần trăm thị trường trong khu vực của chúng. Các trust này gồm tên của nhiều gia đình, như Du Pont, Eastman Kodak, và International Harvester. Về mặt lịch sử, Hoa Kỳ, chí ít miền bắc và trung tây Hoa Kỳ, đã có các thị trường tương đối cạnh tranh và đã quân bình hơn các phần khác của đất nước, đặc biệt là Miền Nam. Nhưng trong thời kỳ này, sự cạnh tranh nhường đường cho độc quyền, và sự bất bình đẳng của cải tăng lên nhanh chóng.
Hệ thống chính trị đa nguyên của Hoa Kỳ đã trao quyền rồi cho một mảng rộng của xã hội mà đã có thể đứng lên chống lại những sự xâm phạm như vậy. Các nạn nhân của các tập quán của các Trùm Ăn Cướp, hay những người phản đối sự chế ngự vô lương tâm của ngành của họ, đã bắt đầu tổ chức để chống lại chúng. Họ đã lập ra phong trào Dân túy và rồi sau đó phong trào Tiến bộ.
Phong trào Dân túy đã nổi lên từ một khủng hoảng nông nghiệp kéo dài, mà đã làm khổ sở vùng Trung Tây từ cuối các năm 1860 trở đi. Nghiệp Đoàn Nông Dân (National Grange of the Order of Patrons of Husbandry), được biết đến như các Granger, đã được thành lập năm 1867 và đã bắt đầu huy động các nông dân chống lại các tập quán kinh doanh không công bằng và phân biệt. Trong năm 1873 và 1874, các Granger đã có được sự kiểm soát mười một cơ quan lập pháp bang miền trung tây, và sự bất mãn nông thôn đã lên đỉnh điểm trong sự hình thành Đảng Nhân Dân năm 1892, mà đã thu được 8,5 phần trăm phiếu bầu phổ thông trong bầu cử tổng thống năm 1892. Trong hai lần bầu cử tiếp theo, những người Dân Túy đã đứng vào hàng ngũ đằng sau hai phong trào Dân chủ không thành công bởi William Jennings Bryan, người đã biến nhiều vấn đề thành của chính ông. Sự phản đối ở cơ sở đối với sự mở rộng của các trust bây giờ đã được tổ chức để thử chống lại ảnh hưởng mà Rockefeller và các Trùm Kẻ Cướp khác sử dụng lên chính trị quốc gia.
Các phong trào chính trị chầm chậm đã bắt đầu có một tác động lên thái độ chính trị và rồi lên lập pháp, đặc biệt liên quan đến vai trò của nhà nước trong điều tiết độc quyền. Luật quan trọng đầu tiên đã là Đạo Luật Thương mại giữa các bang năm 1887, mà đã tạo ra Ủy ban Thương mại Giữa các Bang và đã khởi xướng sự phát triển của quy chế điều tiết liên bang của Bộ Luật Sherman, mà vẫn là một phần chủ yếu của điều tiết chống trust của Hoa Kỳ, trở thành cơ sở cho các cuộc tấn công các trust của các Trùm Kẻ Cướp. Hành động chủ yếu chống lại các trust đã đến sau bầu cử các tổng thống cam kết với cải cách và với giới hạn quyền lực của các Trùm Kẻ Cướp: Theodore Roosevelt, 1901–1909; William Taft, 1909–1913; và Woodrow Wilson, 1913–1921.
Một lực lượng chính trị chủ chốt đứng đằng sau quy chế chống trust và bước đi để áp đặt quy chế liên bang về công nghiệp đã lại là phiếu bầu của nông dân. Các nỗ lực ban đầu bởi các bang riêng lẻ trong các năm 1870 để điều tiết đường sắt đã đến từ các tổ chức nông dân. Thực vậy, gần như tất cả năm mươi chín kiến nghị mà liên quan đến các trust được gửi cho Quốc hội trước khi ban hành Đạo luật Sherman đã đến từ các bang nông nghiệp và đã bắt nguồn từ các tổ chức như Liên hiệp Nông dân, Liên minh Nông dân, Hội Lợi ích Hỗ tương của Nông dân, và Các nhà Bảo trợ Chăn nuôi. Các nông dân đã tìm thấy một lợi ích tập thể trong chống lại các tập quán độc quyền của công nghiệp.
Từ tro tàn của những người Dân túy, những người đã suy sụp nghiêm trọng sau khi dùng ảnh hưởng của mình để ủng hộ những người [thuộc đảng] Dân chủ, đã đến những người Tiến bộ, một phong trào cải cách không đồng nhất quan tâm đến cùng nhiều vấn đề như thế. Phong trào Tiến bộ ban đầu đã quện lại xung quanh nhân vật Teddy Roosevelt, người đã là phó tổng thống của William McKinley và đã đảm đương chức tổng thống tiếp sau vụ ám sát McKinley năm 1901. Trước khi lên nắm chức tầm quốc gia, Roosevelt đã là một thống đốc không nhượng bộ của New York và đã làm việc siêng năng để loại bỏ tham nhũng chính trị và “guồng máy chính trị.” Trong thông điệp đầu tiên của ông cho Quốc hội, Roosevelt đã chuyển sự chú ý của mình đến các trust. Ông đã cho rằng sự thịnh vượng của Hoa Kỳ dựa trên nền kinh tế thị trường và tài khéo léo của các nhà kinh doanh, nhưng đồng thời,
có những cái xấu thực và trầm trọng  … và một … sự tin chắc rộng rãi trong đầu của nhân dân Mỹ rằng các công ty lớn được biết đến như các trust theo một số đặc tính và xu hướng của chúng là có hại cho phúc lợi chung. Điều này xuất hiện không từ tinh thần ghen tỵ hay không độ lượng nào, cũng chẳng từ sự thiếu tự hào về các thành quả vĩ đại mà đã đặt đất nước này lên đầu các quốc gia chiến đấu giành ưu thế thương mại. Nó không dựa vào một sự thiếu đánh giá thông minh về sự tất yếu phải thỏa mãn các điều kiện đang thay đổi và đã thay đổi của thương mại với các phương pháp mới, nó cũng chẳng dựa vào sự không hiểu biết về sự thực rằng sự kết hợp vốn trong nỗ lực để đạt được các thứ lớn lao là cần thiết khi sự tiến bộ của thế giới đòi hỏi rằng các thứ lớn lao phải được làm. Nó dựa trên sự tin chắc chân thành rằng sự kết hợp và sự tập trung phải, không bị cấm, nhưng được giám sát và được kiểm soát bên trong các giới hạn hợp lý; và theo đánh giá của tôi sự tin chắc này là đúng.
Ông tiếp tục: “Cũng phải là mục đích của những người tìm kiếm sự cải thiện xã hội để giải thoát thế giới kinh doanh khỏi các tội ác xảo trá như để giải thoát toàn bộ nhà nước khỏi các tội ác vũ lực.” Kết luận của ông đã là
vì lợi ích của toàn bộ nhân dân, quốc gia cũng phải nắm lấy quyền lực giám sát và điều tiết tất cả các công ty tiến hành kinh doanh giữa các bang, mà không can thiệp vào quyền lực của các bang trong bản thân vấn đề này. Điều này đặc biệt đúng nơi công ty nhận được một phần của cải của nó từ sự tồn tại của yếu tố hay xu hướng độc quyền nào đó trong việc kinh doanh của nó.
Roosevelt đã kiến nghị Quốc hội thiết lập một cơ quan liên bang với quyền lực để điều tra các vụ của các công ty lớn và rằng, nếu cần thiết, một sự tu chính Hiến pháp có thể được sử dụng để tạo ra một cơ quan như vậy. Vào năm 1902 Roosevelt đã sử dụng Đạo luật Sherman để phá vỡ Công ty Chứng khoán Miền Bắc (Northern Securities Company), đụng chạm đến các lợi ích của J.P. Morgan, và sau đó các vụ tố tụng được đưa ra chống lại Du Pont, Công ty Thuốc lá Mỹ, và công ty Standard Oil. Roosevelt đã củng cố Đạo luật Thương mại giữa các Bang với Đạo luật Hepburn năm 1906, mà đã làm tăng quyền lực của Ủy Ban Thương mại giữa các Bang, đặc biệt cho phép nó thanh tra các tài khoản của đường sắt và mở rộng quyền hạn của nó sang các lĩnh vực mới. Người kế vị Roosevelt, William Taft, đã khởi tố các trust thậm chí còn siêng năng hơn, điểm cao của công việc này đã là phá vỡ Công ty Standard Oil trong năm 1911. Taft cũng đã đề xuất những cải cách quan trọng khác, như đưa ra thuế thu nhập liên bang, mà đã đến với sự phê chuẩn Tu chính [Hiến pháp] lần thứ Mười sáu trong năm 1913.
Thời cực thịnh của những cải cách Tiến bộ đến với việc bầu Woodrow Wilson năm 1912. Wilson đã lưu ý trong cuốn sách năm 1913 của ông, cuốn The New Freedom (Quyền tự do mới), “Nếu độc quyền tồn tại dai dẳng, độc quyền sẽ luôn luôn ở cương vị chỉ huy chính phủ. Tôi không kỳ vọng để thấy độc quyền tự kiềm chế. Nếu có những người ở đất nước này đủ lớn để sở hữu chính phủ Hoa Kỳ, họ sẽ sở hữu nó.”
Wilson đã làm việc để thông qua Đạo luật Clayton Chống Trust năm 1914, củng cố Đạo luật Sherman, và ông đã lập ra Ủy ban Thương mại Liên bang (Federal Trade Commission), mà đã thi hành Đạo luật Clayton. Ngoài ra, dưới sự thúc đẩy của sự điều tra của Ủy ban Pujo, do nghị sĩ Louisiana là Arsene Pujo lãnh đạo, về “trust tiền tệ,” sự mở rộng độc quyền vào ngành tài chính, Wilson đã đề nghị tăng điều tiết khu vực tài chính. Trong năm 1913 ông đã thành lập Ban Thống đốc Hệ thống Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Board), mà sẽ điều tiết các hoạt động độc quyền trong khu vực tài chính.
Sự nổi lên của các Trùm Kẻ Cướp và các trust độc quyền của họ vào cuối thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi nhấn mạnh rằng, như chúng ta đã nhấn mạnh rồi ở chương 3, sự hiện diện của các thị trường bản thân nó không là một bảo đảm của các thể chế bao gồm. Các thị trường có thể bị chế ngự bởi vài hãng, đặt ra giá cắt cổ và chặn sự tham gia của các đối thủ hiệu quả hơn và các công nghệ mới. Các thị trường, để mặc cho chúng tự xoay xở, có thể ngừng là bao gồm, ngày càng trở nên bị thống trị bởi kẻ hùng mạnh về kinh tế và chính trị. Các thể chế kinh tế bao gồm đòi hỏi không chỉ các thị trường, mà đòi hỏi các thị trường bao gồm mà tạo ra sân chơi bằng phẳng và các cơ hội kinh tế cho đa số nhân dân. Độc quyền tràn lan, được ủng hộ bởi quyền lực chính trị của elite, mâu thuẫn với điều này. Nhưng phản ứng với các trust độc quyền cũng minh họa rằng khi các thể chế chính trị là bao gồm, chúng tạo ra một lực bù chống những sự chuyển động ra xa các thị trường bao gồm. Đấy là vòng thiện đang hoạt động. Các thể chế kinh tế bao gồm cung cấp các nền tảng mà trên đó các thể chế chính trị bao gồm có thể đơm hoa, trong khi các thể chế chính trị bao gồm hạn chế những sự đi trệch khỏi các thể chế kinh tế bao gồm. Phá tan trust ở Hoa Kỳ, ngược lại với cái chúng ta đã thấy ở Mexico (trang 38-40), minh họa khía cạnh này của vòng thiện. Trong khi không có cơ quan chính trị nào ở Mexico hạn chế độc quyền của Carlos Slim, các Đạo luật Sherman và Clayton đã được dùng lặp đi lặp lại ở Hoa Kỳ trong thế kỷ qua để hạn chế các trust, các độc quyền, và các cartel, và để bảo đảm rằng các thị trường vẫn là các thị trường bao gồm.
Kinh nghiệm Hoa Kỳ trong nửa đầu của thế kỷ thứ hai mươi cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của báo chí tự do trong trao quyền cho các mảng rộng của xã hội và như thế trong vòng thiện. Năm 1906 Roosevelt đã tạo ra từmuckraker (người cào phân, kẻ hay bới móc), dựa trên một nhân vật văn học, người với cái cào phân trongPilgrim’s Progress (Tiến bộ của người Hành hương) của Bunyan, để mô tả cái ông coi như nghề báo xâm nhập. Từ này đã bám vào và tượng trưng hóa các nhà báo những người đã xâm nhập, nhưng cũng có kết quả, phơi bày những sự thái quá của các Trùm Kẻ Cướp cũng như sự thối nát trong hoạt động chính trị địa phương và liên bang. Có lẽ người hay bới móc nổi tiếng nhất đã là Ida Tarbell, mà cuốn sách năm 1904 của bà, cuốnHistory of the Standard Oil Company (Lịch sử của Công ty Standard Oil), đã đóng một vai trò then chốt trong làm thay đổi dư luận chống lại Rockefeller và các lợi ích kinh doanh của ông, lên đến đỉnh điểm trong phá vỡ Standard Oil năm 1911. Một muckraker chủ chốt khác đã là luật sư và tác giả Louis Brandeis, người muộn hơn đã được Tổng thống Wilson bổ nhiệm làm thẩm phán Tòa án Tối cao. Brandeis đã phác họa một loạt các vụ bê bối tài chính trong cuốn sách của mình, cuốn Other People’s Money and How Bankers Use It (Tiền của những Người khác và các Chủ Ngân hàng Sử dụng Nó Ra sao), và đã có ảnh hưởng lớn đến Ủy ban Pujo. Ông trùm báo chí William Randolph Hearst cũng đã đóng một vai trò nổi bật như người hay bới móc. Việc ông cho đăng từng kỳ trong tạp chí The Cosmopolitan của ông trong năm 1906 các bài báo của David Graham Phillips, được gọi là “Sự Làm Phản của Thượng viện – The Treason of the Senate,” đã khích động phong trào để đưa ra việc bầu trực tiếp Thượng viện, một cải cách Tiến bộ chủ chốt khác nữa mà đã xảy ra với sự ban hành Tu chính thứ Mười Bảy của Hiến pháp Hoa Kỳ trong năm 1913.
Các muckraker đã đóng một vai trò chủ yếu trong xui khiến các chính trị gia hành động chống lại các trust. Các Trùm Kẻ Cướp đã căm thù các muckraker, nhưng các thể chế chính trị của Hoa Kỳ đã làm cho là không thể đối với họ để tiệt trừ và bịt miệng những người hay bới móc. Các thể chế chính trị bao gồm cho phép một nền báo chí tự do phát đạt, và một nền báo chí tự do, đến lượt, lại làm cho có nhiều khả năng hơn rằng các đe dọa chống lại các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm sẽ được biết đến một cách rộng rãi và bị kháng cự. Ngược lại, quyền tự do [báo chí] như vậy là không thể dưới các thể chế chính trị khai thác, dưới chính thể chuyên chế, hay dưới chế độ độc tài, mà giúp các chế độ khai thác để ngăn ngừa trước hết sự hình thành của phe đối lập nghiêm túc. Thông tin mà báo chí tự do cung cấp đã rõ ràng là quyết định trong nửa đầu của thế kỷ thứ hai mươi ở Hoa Kỳ. Không có thông tin này, công chúng Hoa Kỳ đã không biết mức độ thật của quyền lực và sự lạm dụng của các Trùm Kẻ Cướp và đã không thể được huy động để chống lại các trust của họ.
 CHỌN NGƯỜI VÀO TÒA ÁN
Franklin D. Roosevelt, ứng viên của Đảng Dân chủ và em con chú của Teddy Roosevelt, đã được bầu làm tổng thống năm 1932 giữa cuộc Đại Suy thoái. Ông đã lên nắm quyền với một sự ủy thác của nhân dân để thực hiện một tập các chính sách đầy tham vọng để chiến đấu với Đại Suy thoái. Vào thời điểm lễ nhậm chức của ông đầu năm 1933, một phần tư lực lượng lao động đã thất nhiệp, với nhiều người bị ném vào cảnh nghèo khổ. Sản xuất công nghiệp đã sụt hơn một nửa kể từ Suy thoái nổ ra năm 1929, và đầu tư đã sụp đổ. Các chính sách mà Roosevelt kiến nghị để chống lại tình trạng này đã được biết đến chung như New Deal (Chính sách Kinh tế Mới). Roosevelt đã có một chiến thắng vững chắc, với 57 phần trăm phiếu bầu phổ thông, Đảng Dân chủ đã có đa số ở cả Hạ viện và Thượng viện, đủ để thông qua luật pháp New Deal. Tuy vậy, một số luật đã nêu ra các vấn đề hiến pháp và đã kết thúc ở Tòa án Tối cao, nơi sự ủy thác cử tri của Roosevelt đã rất ít có tác dụng.
Một trong các trụ cột chính của New Deal đã là Đạo luật Khôi phục Công nghiệp Quốc gia. Chương I đã tập trung vào khôi phục công nghiệp. Tổng thống Roosevelt và nhóm của ông đã tin rằng kiềm chế cạnh tranh công nghiệp, trao cho công nhân các quyền lớn hơn để thành lập các nghiệp đoàn, và điều tiết các tiêu chuẩn làm việc đã là cốt yếu đối với sự cố gắng phục hồi. Chương II đã thiết lập Public Works Administration (Cơ quan quản lý các Công trình Công cộng), mà các dự án hạ tầng cơ sở gồm các cột mốc như ga xe lửa Đường Thứ Ba Mươi ở Philadelphia, cầu Triborough, Đập Grand Coulee, và Đường Overseas nối Key West, Florida, với đất liền. Tổng thống Roosevelt đã ký dự luật thành luật ngày 16 tháng Sáu, 1933, và Đạo luật Khôi phục Công nghiệp Quốc gia đã được đưa vào hoạt động. Tuy vậy, ngay lập tức nó đã đối mặt với các thách thức ở các tòa án. Ngày 27 tháng Năm, 1935, Tòa án Tối cao đã nhất trí quyết định rằng Chương I của đạo luật đã vi hiến. Phán quyết của họ đã lưu ý một cách trang nghiêm, “Những điều kiện đặc biệt có thể cần đến những cách điều trị đặc biệt. Nhưng … các điều kiện đặc biệt không tạo ra hay mở rộng quyền lực thuộc hiến pháp.”
Trước khi quyết định của Tòa được ghi nhận, Roosevelt đã bước một bước tiếp theo của chương trình nghị sự của ông và đã ký Đạo luật Trợ cấp Xã hội (Social Security Act), mà đã đưa nhà nước phúc lợi hiện đại vào Hoa Kỳ: lương hưu khi về hưu, trợ cấp thất nghiệp, giúp đỡ các gia đình có con phụ thuộc, và một số chăm sóc sức khỏe và trợ cấp tàn tật. Ông cũng đã ký Đạo luật Quan hệ Lao động Quốc gia (National Labor Relations Act), mà đã củng cố thêm các quyền của những người lao động để tổ chức các nghiệp đoàn, tham gia thương lượng tập thể, và tiến hành đình công chống lại những người sử dụng lao động của họ. Các biện pháp này cũng đã đối mặt với các thách thức ở Tòa án Tối cao. Khi những thứ này đang đi qua ngành tư pháp, Roosevelt đã được bầu lại trong năm 1936 với một sự ủy thác mạnh mẽ, nhận được 61 phần trăm phiếu bầu phổ thông.
Với sự yêu mến của nhân dân lên cao kỷ lục, Roosevelt đã không có ý định để cho Tòa án Tối cao làm trật bánh xe nhiều hơn trong chương trình nghị sự chính sách của ông. Ông đã trình bày các kế hoạch của ông tại một trong các Buổi nói chuyện với nhân dân (Fireside Chat) thường lệ của ông, mà đã được truyền thanh trực tiếp trên radio ngày 9 tháng Ba, 1937. Ông đã bắt đầu bằng cách chỉ ra rằng trong nhiệm kỳ đầu của ông, các chính sách rất cần đã chỉ vượt qua Tòa án Tối cao một chút ít. Ông tiếp tục:
Làm tôi nhớ lại buổi tối đó trong tháng Ba, bốn năm trước, khi tôi trình bày báo cáo radio đầu tiên của tôi cho bạn. Khi đó chúng ta đang ở giữa cuộc khủng hoảng lớn về ngân hàng. Không lâu sau đó, với sự ủy quyền của Quốc hội, chúng ta đã yêu cầu quốc gia giao toàn bộ số vàng của nó được tư nhân nắm giữ, dollar lấy dollar, cho chính phủ Hoa Kỳ. Sự phục hồi hôm nay chứng minh chính sách đã đúng thế nào. Nhưng khi, gần hai năm muộn hơn, trước Tòa án Tối cao tính hợp hiến của nó đã được xác nhận chỉ bởi năm-trên-bốn phiếu. Sự thay đổi của một phiếu đã có thể quăng tất cả công việc của quốc gia vĩ đại này vào sự hỗn loạn vô vọng. Quả vậy, bốn thẩm phán đã quyết định rằng quyền dưới một hợp đồng tư để khai thác một cân thịt đã thiêng liêng hơn các mục tiêu chính của Hiến pháp để thiết lập một quốc gia lâu dài.
Hiển nhiên, điều này không được để lại bị rủi ro. Roosevelt tiếp tục:
Thứ năm trước tôi đã mô tả hình thức Mỹ của chính phủ như một bộ tam mã được cung cấp bởi Hiến pháp cho nhân dân Mỹ sao cho ruộng của họ có thể được cày. Ba con ngựa, tất nhiên, là ba nhánh của chính phủ – Quốc hội, hành pháp, và các tòa án. Hai trong ba con ngựa, Quốc hội và hành pháp, đang đồng tâm kéo ngày nay; con thứ ba thì không.
Roosevelt sau đó đã chỉ ra rằng Hiến pháp Hoa Kỳ đã thực sự không trao cho Tòa án Tối cao quyền để thách thức tính hợp hiến của luật pháp, nhưng nó đã nhận vai trò này cho mình trong năm 1803. Lúc đó, Thẩm phán Bushrod Washington đã quy định rằng Tòa án Tối cao phải “giả định ủng hộ cho tính hợp lệ [của một luật] cho đến khi sự vi phạm Hiến pháp của nó được chứng minh một cách không còn nghi ngờ gì nữa.” Roosevelt sau đó đã buộc tội:
Trong bốn năm qua quy tắc lành mạnh về trao cho các đạo luật
cần thiết, vô ích và hoàn toàn nguy hiểm của nguyên lý hiến pháp … mà không có tiền lệ hay sự biện minh.” Thượng viện đã bỏ phiếu 70 trên 20 để gửi nó lại cho ủy ban để soạn lại. Tất các các yếu tố “chọn người vào tòa án” đã bị tước hết. Roosevelt đã không có khả năng để loại bỏ các ràng buộc đặt lên quyền lực của ông bởi Tòa án Tối cao. Cho dù quyền lực của Roosevelt vẫn bị ràng buộc, đã có những thỏa hiệp, và các Đạo luật Trợ cấp Xã hội và Quan hệ Lao động Quốc gia cả hai đã được Tòa tuyên là hợp hiến.
Quan trọng hơn số phận của hai đạo luật này đã là bài học chung từ tình tiết này. Các thể chế chính trị bao gồm không chỉ ngăn chặn các sự trệch lớn khỏi các thể chế kinh tế bao gồm, mà chúng cũng cưỡng lại các mưu toan để làm xói mòn sự tiếp tục riêng của chính chúng. Đã là lợi ích trực tiếp của Hạ viện và Thượng viện Dân chủ để chọn người cho tòa án và bảo đảm rằng tất cả luật pháp New Deal sống sót. Nhưng theo cùng cách mà các elite Anh vào đầu thế kỷ thứ mười tám đã hiểu rằng đình chỉ pháp trị sẽ gây nguy hiểm cho các lợi ích mà họ đã giật được từ nền quân chủ, các hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ đã hiểu rằng nếu Tổng thống đã có thể làm xói mòn tính độc lập của ngành tư pháp, thì điều này sẽ làm xói mòn cân bằng quyền lực trong hệ thống mà đã bảo vệ họ khỏi Tổng thống và đã bảo đảm tính liên tục của các thể chế chính trị đa nguyên.
Có lẽ Roosevelt có thể đã quyết định tiếp theo rằng nhận được đa số lập pháp đã cần quá nhiều thỏa hiệp và thời gian và rằng thay vào đó ông đã có thể cai trị bằng sắc lệnh, hoàn toàn làm xói mòn chủ nghĩa đa nguyên và hệ thống chính trị Hoa Kỳ. Quốc hội chắc chắn đã không thông qua điều này, nhưng khi đó Roosevelt đã có thể kêu gọi quốc gia, khẳng định rằng Quốc hội đang cản trở các biện pháp để chiến đấu với Suy thoái. Ông đã có thể sử dụng cảnh sát để đóng cửa Quốc hội. Nghe có vẻ cường điệu khó tin? Đấy chính xác là cái đã xảy ra ở Peru và Venezuela trong các năm 1990. Các Tổng thống Fujimori và Chávez đã kêu gọi sự ủy thác của dân chúng cho họ để đóng cửa các quốc hội không hợp tác và sau đó đã viết lại các Hiến pháp của họ để củng cố một cách mạnh mẽ quyền lực của Tổng thống. Sự lo sợ về độ dốc-trơn tuột này bởi những người chia sẻ quyền lực dưới các thể chế chính trị đa nguyên chính xác là cái đã chặn Walpole khỏi việc sửa các tòa án Anh trong các năm 1720, và nó là cái đã chặn Quốc hội Hoa Kỳ khỏi việc ủng hộ kế hoạch chọn người vào tòa án của Roosevelt. Roosevelt đã đụng độ với sức mạnh của các vòng thiện.
Nhưng logic này không luôn luôn diễn ra, đặc biệt trong các xã hội mà có thể có một vài đặc tính bao gồm nhưng là khai thác một cách rộng rãi. Chúng ta đã thấy rồi động học này ở Rome và Venice. Một minh họa khác nữa đến từ việc so sánh mưu toan thất bại của Roosevelt để chọn người vào Tòa án với các nỗ lực tương tự ở Argentina, nơi một cách cốt yếu cùng các cuộc đấu tranh đã xảy ra trong bối cảnh của các thể chế kinh tế và chính trị khai thác chiếm ưu thế.
Hiến pháp năm 1853 của Argentina đã tạo ra một Tòa án Tối cao với các nhiệm vụ tương tự như các trách nhiệm của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Một quyết định năm 1887 đã cho phép tòa án Argentine đảm nhiệm cùng vai trò như của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trong quyết định liệu các luật cụ thể có hợp hiến hay không. Về lý thuyết, Tòa án Tối cao đã có thể phát triển như một trong những yếu tố quan trọng của các thể chế chính trị bao gồm ở Argentina, nhưng phần còn lại của hệ thống chính trị và kinh tế đã vẫn hết sức khai thác, và đã không có sự trao quyền cho các mảng rộng của xã hội cũng đã chẳng có chủ nghĩa đa nguyên ở Argentina. Như ở Hoa Kỳ, vai trò hiến định của Tòa án Tối cao cũng có thể bị thách thức ở Argentina. Năm 1946 Juan Domingo Perón đã được bầu một cách dân chủ làm Tổng thống Argentina. Perón đã là một cựu đại tá và đầu tiên đã nổi bật toàn quốc sau một cuộc đảo chính quân sự năm 1943, mà đã chỉ định ông ta làm bộ trưởng lao động. Trong vị trí này, ông đã xây dựng liên minh chính trị với các nghiệp đoàn và phong trào lao động, mà sẽ là cốt yếu cho nỗ lực của ông để làm Tổng thống.
Không lâu sau thắng lợi của Perón, những người ủng hộ ông trong Hạ Viện (Chamber of Deputies) đã kiến nghị luận tội bốn trong năm thành viên của Tòa án. Sự buộc tội nhắm chống Tòa án đã là nhiều. Một cớ buộc tội đã dính líu đến việc họ chấp nhận một cách vi hiến tính hợp pháp của hai chế độ quân sự năm 1930 và 1943 – đã là khá mỉa mai, vì Perón đã đóng một vai trò then chốt trong cuộc đảo chính sau. Các lý do khác đã tập trung vào luật pháp mà tòa án đã đánh đổ, hệt như tòa án Hoa Kỳ đã làm. Đặc biệt, ngay trước việc bầu Perón làm Tổng thống, Tòa đã đưa ra một quyết định rằng hội đồng quan hệ lao động quốc gia mới của Perón đã là vi hiến. Hệt như Roosevelt đã phê phán nặng nề Tòa án Tối cao trong chiến dịch bầu lại của ông năm 1936, Perón đã làm hệt thế trong chiến dịch của ông năm 1946. Chín tháng sau khi khởi động quá trình luận tội, Hạ viện đã kết tội ba thẩm phán, thẩm phán thứ tư đã từ chức rồi. Thượng viện đã chấp thuận đề nghị. Perón sau đó đã bổ nhiệm bốn thẩm phán mới. Việc làm xói mòn Tòa án rõ ràng đã có tác động giải thoát Perón khỏi các ràng buộc chính trị. Bây giờ ông đã có thể sử dụng quyền lực không bị kiềm chế, vẫn như các chế độ quân sự ở Argentina đã sử dụng trước và sau nhiệm kỳ tổng thống của ông. Các thẩm phán mới được bổ nhiệm của ông, chẳng hạn, đã phán quyết là hợp hiến sự kết tội Ricardo Balbín, lãnh tụ của đảng đối lập chính đối với Perón, Đảng Cấp Tiến, vì đã không tôn trọng Perón. Perón trên thực tế đã cai trị như một tên độc tài.
Vì Perón đã thành công chọn người cho Tòa án, đã trở thành chuẩn ở Argentina cho bất cứ Tổng thống mới nào để chọn các thẩm phán Tòa án Tối cao riêng của mình. Cho nên một thể chế chính trị mà đã có thể thực hiện một số ràng buộc lên quyền lực của nhánh hành pháp đã mất hết. Chế độ Perón đã bị loại khỏi quyền lực bởi một cuộc đảo chính khác trong năm 1955, và đã tiếp theo bởi một chuỗi dài của những sự chuyển tiếp giữa sự cai trị quân sự và dân sự. Cả các chế độ quân sự và dân sự mới đã chọn các thẩm phán riêng của mình. Nhưng chọn các thẩm phán Tòa án Tối cao ở Argentina đã không là một hoạt động được giới hạn cho những sự chuyển tiếp giữa sự cai trị quân sự và dân sự. Trong năm 1990 Argentina cuối cùng đã trải qua một sự chuyển tiếp giữa các chính phủ được bầu một cách dân chủ – một chính phủ dân chủ tiếp sau bởi chính phủ dân chủ khác. Thế nhưng, vào thời gian này các chính phủ dân chủ đã không ứng xử khác mấy với các chính phủ quân sự khi đến việc của Tòa án Tối cao. Tổng thống mới nhậm chức đã là Carlos Saúl Menem của Đảng Perónist. Các thẩm phán Tòa án Tối cao đương nhiệm đã được bổ nhiệm sau sự chuyển tiếp sang nền dân chủ năm 1983 bởi Tổng thống Đảng Cấp Tiến Raúl Alfonsín. Vì đấy là một sự chuyển tiếp dân chủ, đã chẳng có lý do gì cho Menem để bổ nhiệm tòa án riêng của mình. Nhưng trong thời gian dẫn đến bầu cử, Menem đã để lộ bản chất của ông rồi. Ông ta đã liên tục, mặc dù không thành công, thử khuyến khích (hay thậm chí đe dọa) các thành viên của tòa để họ từ chức. Ông đã chào một cách nổi tiếng cho Thẩm phán Carlos Fayt một chức đại sứ. Nhưng ông đã bị quở trách, và Fayt đã đáp lại bằng gửi cho ông một bản của cuốn sách Law and Ethics (Luật và Đạo đức học), với một ghi chú đề tặng “Cẩn thận tôi đã viết cuốn này”. Không nao núng, trong vòng ba tháng từ khi nhậm chức, Menem đã gửi một dự luật đến Hạ viện kiến nghi mở rộng Tòa án từ năm lên chín thành viên. Một lý lẽ hệt như Roosevelt đã dùng năm 1937: tòa đã làm việc quá sức. Luật đã nhanh chóng đi qua Thượng viện và Hạ viện, và việc này đã cho phép Menem bổ nhiệm bốn thẩm phán mới. Ông đã có đa số của mình.
Thắng lợi của Menem chống lại Tòa án Tối cao đã khởi động một loại động học độ dốc-trơn tuột mà chúng ta đã nhắc tới ở trước. Bước tiếp theo của ông đã là viết lại Hiến pháp loại bỏ giới hạn nhiệm kỳ để ông có thể ứng cử Tổng thống lần nữa. Sau khi được bầu lại, Menem đã đề nghị viết lại Hiến pháp lần nữa, nhưng đã bị chặn không phải bởi các thể chế chính trị Argentina mà bởi các phe cánh bên trong Đảng Perónist của chính ông, những người đã chiến đấu chống lại sự thống trị cá nhân của ông.
Từ khi độc lập, Argentina đã chịu hầu hết các vấn đề thể chế mà đã gây tai họa cho Mỹ Latin. Nó đã bị sập bẫy trong một vòng luẩn quẩn, không phải một vòng thiện. Như một hệ quả, những sự phát triển tích cực, như các bước đầu tiên hướng tới việc tạo ra một Tòa án Tối cao độc lập, đã chẳng bao giờ có được vị trí chắc chắn. Với chủ nghĩa đa nguyên, không nhóm nào muốn hay dám lật đổ quyền lực của nhóm khác, vì sợ rằng quyền lực riêng của chính nó sau đó sẽ bị thách thức. Đồng thời, sự phân bổ rộng quyền lực làm cho một sự lật đổ như vậy là khó. Một Tòa án Tối cao có thể có quyền lực nếu nó nhận được sự ủng hộ đáng kể từ các mảng rộng của xã hội sẵn sàng đẩy lui các mưu toan để làm mất hiệu lực của tính độc lập của Tòa án. Điều đó đã đúng ở Hoa Kỳ, không phải ở Argentina. Các nhà lập pháp ở đó đã vui lòng để làm xói mòn Tòa án cho dù họ đã thấy trước rằng việc này đã có thể gây nguy hiểm cho vị trí của chính họ. Một lý do là, với các thể chế khai thác có nhiều để kiếm được từ việc lật đổ Tòa án Tối cao, và các lợi ích tiềm năng đó là đáng giá các rủi ro.
 PHẢN HỒI DƯƠNG VÀ CÁC VÒNG THIỆN
Các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm không tự nổi lên. Chúng thường là kết quả của xung đột đáng kể giữa các elite cưỡng lại sự tăng trưởng kinh tế và thay đổi chính trị và những người muốn hạn chế quyền lực kinh tế và chính trị của các elite hiện tồn. Các thể chế bao gồm nổi lên trong các bước ngoặt, như trong Cách mạng Vinh quang ở Anh hay sự thành lập thuộc địa Jamestown ở Bắc Mỹ, khi một chuỗi nhân tố làm yếu sự nắm giữ quyền lực của các elite, làm cho các đối thủ của họ mạnh hơn, và tạo ra những khuyến khích cho việc hình thành của một xã hội đa nguyên. Kết quả của xung đột chính trị chẳng bao giờ là chắc chắn, và cho dù nhìn lại chúng ta thấy nhiều sự kiện lịch sử cứ như là không thể tránh khỏi, con đường của lịch sử là tùy thuộc ngẫu nhiên. Tuy nhiên, một khi đã ở trong vị trí, các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm có xu hướng tạo ra một vòng thiện, một quá trình phản hồi dương, làm cho có khả năng hơn rằng các thể chế này sẽ tồn tại dai dẳng và thậm chí mở rộng.
Vòng thiện hoạt động thông qua nhiều cơ chế. Đầu tiên, logic của các thể chế chính trị đa nguyên làm cho việc chiếm đoạt quyền lực bởi một kẻ độc tài, một phe phái bên trong chính phủ, hay thậm chí một Tổng thống có thiện chí là khó hơn nhiều, như Franklin Roosevelt đã phát hiện ra khi ông thử loại bỏ những sự kiểm soát lên quyền lực của ông được áp đặt bởi Tòa án Tối cao, và như Sir Robert Walpole đã phát hiện ra khi ông thử thực hiện một cách qua loa Đạo luật Đen. Trong cả hai trường hợp, sự tập trung thêm quyền lực vào tay một cá nhân hay một nhóm hẹp sẽ bắt đầu làm xói mòn các nền tảng của các thể chế chính trị đa nguyên, và biện pháp thật của chủ nghĩa đa nguyên chính xác là khả năng của nó để cưỡng lại các mưu toan như vậy. Chủ nghĩa đa nguyên cũng là nơi lưu giữ linh thiêng quan niệm về pháp trị, nguyên lý rằng các luật phải được áp dụng ngang bằng cho tất cả mọi người – cái gì đó là không thể một cách tự nhiên dưới một nền quân chủ chuyên chế. Nhưng pháp trị, đến lượt, lại ngụ ý rằng các luật không thể đơn giản được sử dụng bởi một nhóm để xâm phạm các quyền của người khác. Còn nhiều hơn, nguyên lý của pháp trị mở cánh cửa cho sự tham gia lớn hơn trong quá trình chính trị và tính bao gồm lớn hơn, khi nó đưa vào một cách mạnh mẽ ý tưởng rằng nhân dân phải bình đẳng không chỉ trước luật mà cả trong hệ thống chính trị. Đấy là một trong những nguyên lý mà đã làm cho rất khó đối với hệ thống chính trị Anh để cưỡng lại những lời kêu gọi mạnh mẽ cho dân chủ lớn hơn suốt thế kỷ thứ mười chín, mở đường cho sự mở rộng từ từ của quyền bầu cử cho tất cả những người trưởng thành.
Thứ hai, như chúng ta đã thấy nhiều lần trước đây, các thể chế chính trị bao gồm ủng hộ và được ủng hộ bởi các thể chế kinh tế bao gồm. Điều này tạo ra một cơ chế khác của vòng thiện. Các thể chế kinh tế bao gồm loại bỏ các mối quan hệ kinh tế khai thác quá xá nhất, như tình trạng nô lệ và chế độ nông nô, làm giảm tầm quan trọng của các độc quyền, và tạo ra một nền kinh tế năng động, mà tất cả chúng làm giảm các lợi ích kinh tế mà một người có thể đạt được, chí ít trong ngắn hạn, bằng chiếm đoạt quyền lực chính trị. Bởi vì các thể chế kinh tế đã trở nên đủ bao gồm ở Anh vào thế kỷ thứ mười tám, elite đã có ít để đạt được bằng bám lấy quyền lực và, thực ra, đã có nhiều để mất bằng sử dụng sự đàn áp rộng rãi chống lại những người đòi hỏi dân chủ lớn hơn. Khía cạnh này của vòng thiện làm cho sự tiến triển từ từ của dân chủ ở nước Anh thế kỷ thứ mười chín đã cả ít đe dọa giới elite và có khả năng hơn để thành công. Điều này tương phản với tình hình ở các chế độ chuyên chế như các đế chế Áo-Hungary hay Nga, nơi các thể chế kinh tế đã vẫn hết sức khai thác và, vì thế, nơi muộn hơn những lời kêu gọi cho sự bao gồm chính trị lớn hơn trong thế kỷ thứ mười chín đã đối mặt với sự đàn áp bởi vì giới elite đã có quá nhiều để mất vì sự chia sẻ quyền lực.
Cuối cùng, các thể chế chính trị bao gồm cho phép một nền báo chí tự do đơm hoa kết trái, và một nền báo chí tự do thường cung cấp thông tin về và động viên sự phản đối các mối đe dọa chống lại các thể chế bao gồm, như nó đã làm trong phần tư cuối của thế kỷ thứ mười chín và phần tư đầu của thế kỷ thứ hai mươi, khi sự thống trị kinh tế ngày càng gia tăng của các Trùm Kẻ Cướp đã đe dọa bản chất của các thể chế kinh tế bao gồm ở Hoa Kỳ.
Mặc dù kết quả của các xung đột luôn luôn-hiện diện tiếp tục là tùy thuộc ngẫu nhiên, thông qua các cơ chế này vòng thiện tạo ra một xu hướng hùng mạnh cho các thể chế bao gồm để tồn tại lâu dài, để cưỡng lại các thách thức, và để mở rộng như chúng đã làm ở cả Anh và Hoa Kỳ. Đáng tiếc, như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, các thể chế khai thác tạo ra các lực mạnh ngang thế theo hướng sự tồn tại dai dẳng của chúng – quá trình của vòng luẩn quẩn./.
12.VÒNG LUẨN QUẨN
KHÔNG THỂ ĐI XE LỬA ĐẾN BO NỮA
TOÀN BỘ QUỐC GIA tây Phi Sierra Leone đã trở thành thuộc địa Anh trong năm 1896. Thành phố thủ đô, Freetown, được thành lập vào cuối thế kỷ thứ mười tám ban đầu như một quê hương cho các nô lệ được hồi hương và được giải phóng. Nhưng khi Freetown trở thành một thuộc địa Anh, nội địa Sierra Leone đã vẫn gồm nhiều vương quốc nhỏ Phi châu.
 Từ từ, trong nửa sau của thế kỷ thứ mười chín, những người Anh đã mở rộng sự cai trị của họ vào nội địa thông qua một chuỗi dài các hiệp ước với các nhà cai trị Phi châu. Ngày 31 tháng Tám, 1896, chính phủ Anh đã tuyên bố thuộc địa là một chế độ bảo hộ dựa trên cơ sở của các hiệp ước này. Những người Anh đã nhận diện các nhà cai trị quan trọng và đã trao cho họ một tước hiệu mới, thủ lĩnh tối cao. Ở miền đông Sierra Leone, chẳng hạn, trong quận khai mỏ kim cương hiện đại, quận Kono, họ đã bắt gặp Suluku, một nhà vua chiến binh hùng mạnh. Vua Suluku đã được biến thành Thủ lĩnh Tối cao Suluku, và chức thủ lĩnh của Sandor đã được tạo ra như một đơn vị hành chính trong chế độ bảo hộ.
Mặc dù các vua như Suluku đã ký các hiệp định với một người cầm quyền hành chính, họ đã không hiểu rằng các hiệp định này sẽ được diễn giải như sự được phép toàn quyền hành động để dựng lên một thuộc địa. Khi những người Anh đã thử thu thuế lều – một khoản thuế năm shilling phải được thu từ mỗi nhà – trong tháng Giêng 1898, các thủ lĩnh đã đứng lên trong một cuộc nội chiến mà được biết đến như Nổi loạn Thuế Lều (Hut Tax Rebellion). Nó đã bắt đầu ở miền bắc, nhưng đã mạnh nhất và kéo dài hơn ở miền nam, đặc biệt ở Mendeland, bị chi phối bởi nhóm sắc tộc Mende. Nổi loạn Thuế Lều đã mau chóng thất bại, nhưng nó đã cảnh cáo những người Anh về các thách thức của việc kiểm soát nội địa Sierra Leone. Những người Anh đã bắt đầu xây dựng một đường sắt từ Freetown vào nội địa. Công việc đã bắt đầu trong tháng Ba 1896, và tuyến đường sắt đã đến Songo Town tháng Mười Hai 1898, giữa cuộc Nổi loạn Thuế Lều. Các báo quốc hội Anh từ 1904 đã ghi rằng:
Trong trường hợp Đường sắt Sierra Leone cuộc Khởi nghĩa Bản địa nổ ra trong tháng Giêng 1898 đã có tác động làm ngừng hoàn toàn công việc và làm tan rã nhân viên trong thời gian nào đó. Những người nổi loạn đã bất ngờ tấn công đường sắt, với kết quả là toàn bộ nhân viên đã phải rút về Freetown … Rotifunk, bây giờ ở đường sắt cách Freetown 55 dặm, vào lúc đó đã hoàn toàn trong tay những người nổi loạn.
Thực ra, Rotifunk đã không ở trên tuyến đường sắt được dự tính trong năm 1894. Con đường đã bị thay đổi sau khi bắt đầu vụ bạo loạn, cho nên thay vì đi theo hướng đông bắc, nó đã đi xuống phía nam, qua Rotifunk và đến Bo, vào đất Mende (Mendeland). Những người Anh đã muốn tiếp cận nhanh đến Mendeland, trung tâm của cuộc nổi loạn, và đến các phần khác có tiềm năng gây hỗn loạn ở nội địa nếu các cuộc nổi loạn khác bùng nổ.
Khi Sierra Leone trở nên độc lập năm 1961, những người Anh đã trao quyền lực cho Sir Milton Margai và Đảng Nhân dân Sierra Leone (Sierra Leone People’s Party – SLPP), mà đã thu hút sự ủng hộ chủ yếu ở miền nam, đặc biệt Mendeland, và ở miền đông. Tiếp theo Sir Milton đã là em ông, Sir Albert Margai, với tư cách thủ tướng năm 1964. Năm 1967 SLPP đã thua sít sao một cuộc bầu cử tranh giành nóng bỏng trước phe đối lập, Đảng Hội nghi Toàn dân (All People’s Congress Party – APC), do Siaka Stevens lãnh đạo. Stevens đã là một người Limba, từ miền bắc, và APC đã có hầu hết sự ủng hộ của họ từ các nhóm sắc tộc miền bắc, những người Limba, Temne, và Loko.
Mặc dù đường sắt xuống phía nam ban đầu đã được thiết kế bởi những người Anh để cai trị Sierra Leone, vào năm 1967 vai trò của nó đã là kinh tế, chuyên chở hầu hết hàng xuất khẩu của đất nước: cà phê, cocoa, và kim cương. Các nông dân trồng cà phê và cocoa đã là những người Mende, và đường sắt đã là cửa sổ của Mendeland ra thế giới. Mendeland đã hết sức bầu cho Albert Margai trong bầu cử năm 1967. Stevens đã quan tâm nhiều đến việc bám chắc lấy quyền lực hơn là thúc đẩy xuất khẩu của Mendeland. Lập luận của ông đã đơn giản: bất cứ thứ gì tốt cho người Mende là tốt cho SLPP, và xấu cho Stevens. Cho nên ông đã ngừng tuyến đường sắt đến Mendeland. Rồi ông đã đi trước và đã bán tống bán tháo đường ray và nguyên liệu lưu chuyển để làm cho sự thay đổi càng không thể đảo ngược được càng tốt. Bây giờ, khi bạn lái xe ra khỏi Freetown sang phía đông, bạn đi qua các ga đường sắt đổ nát Hastings và Waterloo. Không còn tàu hỏa đi đến Bo nữa. Tất nhiên, hành động quyết liệt của Stevens đã gây thiệt hại một cách tai họa cho một số khu vực sôi động của nền kinh tế Sierra Leone. Nhưng giống nhiều lãnh đạo Phi châu sau độc lập, khi sự lựa chọn đã là giữa củng cố quyền lực và khuyến khích sự tăng trưởng kinh tế, Stevens chọn củng cố quyền lực của mình, và ông đã chẳng bao giờ nhìn lại. Ngày nay không thể đi tàu hỏa đến Bo nữa, bởi vì giống Sa hoàng Nicholas I, người đã sợ rằng đường sắt sẽ mang cách mạng đến Nga, Stevens đã tin đường sắt sẽ tăng cường các đối thủ của ông. Giống rất nhiều nhà cai trị khác khi kiểm soát các thể chế khai thác, ông đã sợ các thách thức đối với quyền lực chính trị của mình và đã sẵn sàng hy sinh sự tăng trưởng kinh tế để phá các thách thức đó.
Chiến lược của Stevens thoạt nhìn tương phản với chiến lược của người Anh. Nhưng thực ra, có một mức độ liên tục đáng kể giữa sự cai trị Anh và chế độ của Stevens mà minh họa logic của các vòng luẩn quẩn. Stevens đã cai trị Sierra Leone bằng cách khai thác các nguồn lực từ người dân của nó sử dụng các phương pháp tương tự. Ông đã vẫn còn nắm quyền lực trong năm 1985 không bởi vì ông đã được nhân dân ưa thích bầu lại, mà bởi vì sau 1967 ông đã dựng lên một chế độ độc tài hung bạo, giết và quấy rối các đối thủ chính trị của ông, đặc biệt các thành viên của SLPP. Ông đã biến mình thành tổng thống trong năm 1971, và sau 1978, Sierra Leone đã chỉ có một đảng chính trị, APC của Stevens. Stevens như thế đã củng cố quyền lực của mình một cách thành công, cho dù với cái giá làm bần cùng phần lớn nội địa.
Trong thời kỳ thuộc địa, người Anh đã sử dụng một hệ thống cai trị gián tiếp để quản lý Sierra Leone, như họ đã làm với hầu hết các thuộc địa Phi châu của họ. Tại cơ sở của hệ thống này đã là các thủ lĩnh tối cao, họ thu thuế, thực thi công lý, và giữ trật tự. Người Anh đối phó với các nông dân trồng cocoa và cà phê không phải bằng cách cô lập họ, mà bằng cách buộc họ phải bán tất cả sản phẩm của họ cho một hội đồng marketing được phát triển bởi sở thuộc địa được cho là để giúp đỡ các nông dân. Giá cả của các mặt hàng nông nghiệp đã lên xuống dữ dội theo thời gian. Giá cocoa có thể cao một năm và thấp trong năm tiếp theo. Thu nhập của các nông dân đã lên xuống theo. Lý lẽ biện minh cho hội đồng marketing đã là, họ, chứ không phải các nông dân, sẽ hấp thu những dao động giá. Khi giá thế giới cao, hội đồng trả các nông dân ở Sierra Leone ít hơn giá thế giới, nhưng khi giá thế giới thấp, họ sẽ làm điều ngược lại. Đã có vẻ là một ý tưởng tốt về nguyên lý. Tuy vậy, thực tế đã rất khác. Hội đồng Marketing Sản phẩm Sierra Leone đã được thành lập năm 1949. Tất nhiên hội đồng đã cần một nguồn thu nhập để hoạt động. Cách tự nhiên để đạt những điều này là trả cho các nông dân ít hơn mức họ phải được nhận một chút cả trong năm thuận lợi lẫn trong năm bất lợi. Số tiền này khi đó có thể được dùng cho các khoản chi tiêu chung và hành chính. Chẳng bao lâu ít hơn một chút trở thành ít hơn nhiều. Nhà nước thuộc địa đã sử dụng hội đồng marketing như một cách để đánh thuế các nông dân một cách nặng nề.
Nhiều người đã kỳ vọng các tập quán tồi nhất của sự cai trị thuộc địa ở châu Phi hạ-Sahara ngừng lại sau độc lập, và việc sử dụng các hội đồng marketing để đánh thuế quá đáng các nông dân sẽ chấm dứt. Nhưng chẳng việc nào đã xảy ra. Trên thực tế, sự tước đoạt các nông dân bằng cách sử dụng các hội đồng marketing đã trở nên tồi hơn nhiều. Vào giữa các năm 1960, các nông dân trồng cọ lấy nhân đã nhận được 56 phần trăm giá thế giới từ hội đồng marketing; nông dân cocoa, 48 phần trăm; và nông dân cà phê, 49 phần trăm. Vào thời gian Stevens rời chức vụ trong năm 1985, việc từ chức để cho phép ông chọn người kế vị của mình, Joseph Momoh, để trở thành tổng thống, các con số này, một cách tương ứng, đã là 37, 19, và 27 phần trăm. Dẫu đáng thương như điều này có thể có vẻ, nó tốt hơn mức các nông dân đã nhận được dưới triều đại Stevens, mà đã thường thấp đến mức 10 phần trăm – tức là, 90 phần trăm thu nhập của các nông dân đã bị chính phủ Stevens tước đoạt, và không cung cấp các dịch vụ công, như đường sá hay giáo dục, mà chỉ để làm giàu cho bản thân và cho những cánh hẩu của ông và để mua sự ủng hộ chính trị.
Như một phần của sự cai trị gián tiếp của họ, những người Anh đã cũng quy định rằng chức thủ lĩnh tối cao được giữ suốt đời. Để đủ tư cách là một thủ lĩnh, người ta đã phải là thành viên của một “gia tộc cai trị” được công nhận. Nét nhận diện của các gia tộc cai trị trong một chức thủ lĩnh đã tiến triển theo thời gian, nhưng về cơ bản nó dựa trên dòng dõi của các vua ở một vùng cá biệt và của các gia đình elite mà đã ký các hiệp ước với những người Anh vào cuối thế kỷ thứ mười chín. Các thủ lĩnh đã được bầu, nhưng không theo cách dân chủ. Một cơ quan được gọi là Nhà chức trách Bộ lạc, mà các thành viên của nó đã là thủ lĩnh các làng nhỏ hơn hay được các thủ lĩnh tối cao chỉ định, các thỉ lĩnh làng, hay các nhà chức trách Anh, đã quyết định ai sẽ trở thành thủ lĩnh tối cao. Người ta có thể đã hình dung rằng thể chế thuộc địa này cũng sẽ được bãi bỏ hay chí ít được cải cách sau khi độc lập. Nhưng giống hệt như hội đồng marketing, nó đã không, và đã tiếp tục không thay đổi gì. Ngày nay các thủ lĩnh tối cao vẫn chịu trách nhiệm thu thuế. Không còn là thuế lều nữa, mà là hậu duệ gần của nó, thuế thân. Trong năm 2005 Nhà chức trách Bộ lạc ở Sandor đã bầu một thủ lĩnh tối cao mới. Chỉ các ứng viên từ gia tộc cai trị Fasuluku, mà là gia tộc cai trị duy nhất, đã có thể ra ứng cử. Người chiến thắng đã là Sheku Fasuluku, chút của Vua Suluku.
Ứng xử của các các hội đồng marketing và các hệ thống truyền thống về quyền sở hữu đất giải thích thành công vì sao năng suất nông nghiệp lại hết sức thấp ở Sierra Leone và ở phần lớn châu Phi hạ-Sahara. Nhà khoa học chính trị Robert Bates trong các năm 1980 đã bắt đầu tìm hiểu vì sao nông nghiệp đã rất không sinh lời ở châu Phi cho dù theo sách giáo khoa kinh tế học đấy đã phải là khu vực kinh tế năng động nhất. Ông đã nhận ra rằng điều này đã chẳng liên quan gì đến địa lý hay các loại nhân tố đã được thảo luận ở chương 2 mà được cho là làm cho năng suất nông nghiệp thấp một cách nội tại. Đúng hơn, nó đã đơn giản là bởi vì các chính sách giá của các hội đồng marketing đã loại bỏ bất cứ khuyến khích nào cho các nông dân để đầu tư, sử dụng phân bón, hay bảo vệ đất.
Lý do mà các chính sách của các hội đồng marketing đã rất không thuận lợi cho các nhóm lợi ích nông thôn, là các nhóm này đã không có quyền chính trị. Các chính sách giá này đã tương tác với các nhân tố cơ bản khác khiến cho đất phát canh không an toàn, làm xói mòn thêm các khuyến khích đầu tư. Ở Sierra Leone, các thủ lĩnh tối cao không chỉ cung cấp luật và trật tự và các dịch vụ tư pháp, và thu thuế, mà họ cũng là “những người trông coi đất.” Mặc dù các gia đình, các thị tộc, và các triều đại đã có các quyền sử dụng và các quyền truyền thống đối với đất; rốt cuộc các thủ lĩnh có tiếng nói cuối cùng về ai canh tác ở đâu. Các quyền tài sản về đất của bạn chỉ an toàn nếu bạn có quan hệ với thủ lĩnh, có lẽ từ cùng gia tộc cai trị. Đất không thể được mua hay bán hay dùng như tài sản thế chấp cho một khoản vay, và nếu bạn sinh ra ở bên ngoài vùng do thủ lĩnh cai trị, bạn không thể trồng bất cứ cây trồng lâu năm nào như cà phê, cocoa, hay cọ vì sợ rằng việc này sẽ cho phép bạn xác lập quyền sở hữu “de facto – thực tế”.
Sự tương phản giữa các thể chế khai thác được phát triển bởi người Anh ở Sierra Leone và các thể chế bao gồm mà đã phát triển ở các thuộc địa khác, như Australia, được minh họa bởi cách tài nguyên khoáng sản được quản lý. Kim cương đã được phát hiện ra ở Kono ở miền đông Sierra Leone tháng Giêng 1930. Kim cương bồi tích, tức là, không ở trong các mỏ sâu. Cho nên phương pháp chủ yếu để khai mỏ đã là đãi ở các sông. Một số nhà khoa học xã hội gọi đấy là “kim cương dân chủ,” bởi vì chúng cho phép nhiều người tham gia vào khai mỏ, tạo ra một cơ hội bao gồm tiềm năng. Không phải thế ở Sierra Leone. Vui vẻ bỏ qua bản chất dân chủ vốn có của việc đãi kim cương, chính phủ Anh đã dựng lên một độc quyền cho toàn bộ lãnh thổ bảo hộ, gọi nó là Sierra Leone Selection Trust, và đã nhượng nó cho De Beers, công ty Nam Phi khai khoáng kim cương khổng lồ. Năm 1936 De Beers cũng đã được trao quyền để thành lập Lực lượng Bảo vệ Kim cương, một quân đội tư nhân mà sẽ trở nên lớn hơn quân đội của chính phủ thuộc địa ở Sierra Leone. Ngay có như thế, thì sự sẵn có rộng rãi của kim cương bồi tích đã làm cho tình hình khó để kiểm soát bằng cảnh sát. Vào các năm 1950, Lực lượng Bảo vệ Kim cương đã bị lấn át bởi hàng ngàn người khai mỏ kim cương bất hợp pháp, một nguồn xung đột và hỗn loạn rất lớn. Trong năm 1955 chính phủ Anh đã mở một số khu khai thác kim cương cho những người đào có giấy phép ngoài Sierra Leone Selection Trust, mặc dù công ty này vẫn nắm các vùng giàu [kim cương] nhất ở các Khu khai thác Yengema, Koidu và Tongo. Tình hình cuối cùng đã trở nên tồi hơn sau khi độc lập. Trong năm 1970 Siaka Stevens trên thực tế đã quốc hữu hóa Sierra Leone Selection Trust, tạo ra Công ty trách nhiệm hữu hạn Khai mỏ Kim cương Quốc gia [National Diamond Mining Company (Sierra Leone) Limited], trong đó chính phủ, trên thực tế có nghĩa là Stevens, đã có 51 phần trăm phần hùn. Đây là giai đoạn mở đầu của kế hoạch của Stevens để thâu tóm việc khai mỏ kim cương ở nước này.
Tại Australia thế kỷ thứ mười chín, vàng, được phát hiện ra năm 1851 ở New South Wales và bang Victoria mới được tạo ra, chứ không phải kim cương, đã là cái thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Giống kim cương ở Sierra Leone, vàng đã ở dạng bồi tích, và một quyết định đã phải được đưa ra về khai thác nó thế nào. Một số, như James Macarthur, con trai của John Macarthur, nhà lãnh đạo nổi bật của những Kẻ Chiếm Đất (Squatter) mà chúng ta đã thảo luận ở trước (trang 276-2820, đã đề xuất rằng phải rào quanh các vùng khai mỏ và bán đấu giá các quyền độc quyền [khai thác]. Họ đã muốn một phiên bản Australian của Sierra Leone Selection Trust. Thế nhưng nhiều người ở Australia đã muốn sự tiếp cận tự do đến các vùng khai mỏ. Mô hình bao gồm đã thắng, và thay cho việc dựng lên một độc quyền, các nhà chức trách Australia đã cho phép bất kỳ ai chịu đóng một khoản phí khai mỏ hàng năm được tự do tìm kiếm và đào vàng. Chẳng bao lâu, những người đào, những người mạo hiểm này được được gọi như vậy, đã là một lực lượng hùng mạnh trong hoạt động chính trị Australia, đặc biệt ở Victoria. Họ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đề xuất chương trình nghị sự về quyền bầu cử phổ quát và bầu bằng phiếu kín bí mật.
Chúng ta đã thấy rồi hai tác động tai hại của sự mở rộng và sự cai trị thuộc địa của người Âu châu ở châu Phi: việc đưa vào buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương, mà đã khuyến khích sự phát triển các thể chế chính trị và kinh tế Phi châu theo hướng khai thác, và việc sử dụng pháp luật thuộc địa và các thể chế để loại bỏ sự phát triển của ngành nông nghiệp thương mại Phi châu mà đã có thể cạnh tranh với những người Âu châu. Tình trạng nô lệ đã chắc chắn là một lực ở Sierra Leone. Tại thời kỳ thuộc địa hóa, đã không có nhà nước tập trung mạnh trong nội địa, chỉ có nhiều vương quốc nhỏ, đối kháng lẫn nhau, đột kích nhau liên miên và bắt giữ đàn ông và đàn bà của nhau. Tình trạng nô lệ đã là bệnh địa phương, với có lẽ 50 phần trăm dân số làm việc như các nô lệ. Môi trường bệnh tật đã có nghĩa rằng sự định cư quy mô lớn của người da trắng đã là không thể ở Sierra Leone, như ở Nam Phi. Vì thế đã không có những người da trắng nào cạnh tranh với những người Phi châu. Hơn nữa, việc thiếu một nền kinh tế khai mỏ có quy mô của Johannesburg đã có nghĩa rằng, ngoài sự thiếu cầu đối với lao động Phi châu từ các trang trại da trắng, đã không có khuyến khích nào để tạo ra các thể chế thị trường khai thác rất đặc trưng của Nam Phi Apartheid.
Nhưng các cơ chế khác cũng đã hoạt động. Các chủ trang trại cocoa và cà phê của Sierra Leone đã không cạnh tranh với những người da trắng, mặc dù thu nhập của họ vẫn đã bị tước đoạt thông qua một độc quyền chính phủ, hội đồng marketing. Sierra Leone cũng đã chịu đau khổ từ sự cai trị gián tiếp. Trong nhiều phần của châu Phi nơi các nhà chức trách Anh đã muốn sử dụng sự cai trị gián tiếp, họ đã tìm thấy những người mà đã không có một hệ thống quyền lực được tập trung hóa để có thể tiếp quản. Thí dụ, ở đông Nigeria những người Igbo đã không có các thủ lĩnh khi những người Anh bắt gặp họ trong thế kỷ thứ mười chín. Người Anh sau đó đã tạo ra các thủ lĩnh, các thủ lĩnh được cho phép. Ở Sierra Leone, người Anh đã đặt cơ sở sự cai trị gián tiếp trên các thể chế bản địa và các hệ thống quyền lực hiện tồn.
Tuy nhiên, bất chấp cơ sở lịch sử cho các cá nhân được công nhận như các thủ lĩnh tối cao năm 1896, sự cai trị gián tiếp, và các năng lực mà nó đã đầu tư vào các thủ lĩnh tối cao, đã làm thay đổi hoàn toàn nền chính trị hiện tồn của Sierra Leone. Một là, nó đã đưa vào một hệ thống phân tầng xã hội – các gia tộc cai trị – nơi trước kia đã chẳng hề có gia tộc nào. Một giới quý tộc cha truyền con nối đã thay thế một tình trạng mà đã dễ thay đổi và nơi các thủ lĩnh đã phải có sự ủng hộ của dân chúng. Thay vào đó cái đã nổi lên là một hệ thống cứng nhắc với các chức thủ lĩnh suốt đời, chịu ơn những người bảo trợ họ ở Freetown hay ở Anh, và có ít trách nhiệm giải trình hơn rất nhiều đối với nhân dân mà họ cai trị. Người Anh cũng đã vui vẻ phá vỡ các thể chế theo các cách khác nữa, thí dụ, bằng thay thế các thủ lĩnh hợp pháp bằng những người sẵn sàng hợp tác hơn. Thật vậy, gia đình Margai, mà đã cung cấp hai thủ tướng đầu tiên cho Sierra Leone độc lập, đã lên nắm quyền ở vùng lãnh địa Hạ Banta bằng cách đứng về phía người Anh trong cuộc Nổi loạn Thuế Lều chống lại thủ lĩnh đang trị vì, Nyama. Nyama đã bị phế truất, và nhà Margais trở thành các thủ lĩnh và đã giữ vị trí cho đến 2010.
Điều đáng chú ý là mức độ của tính liên tục giữa Sierra Leone thuộc địa và Sierra Leone độc lập. Người Anh đã tạo ra các hội đồng marketing và đã sử dụng chúng để đánh thuế các nông dân. Các chính phủ hậu thuộc địa đã cũng làm thế, tước đoạt với các tỷ lệ thậm chí còn cao hơn. Người Anh đã tạo ra hệ thống cai trị gián tiếp thông qua các thủ lĩnh tối cao. Các chính phủ tiếp sau sự độc lập đã không loại bỏ thể chế thuộc địa này; đúng hơn, họ đã sử dụng nó để cai trị cả vùng nông thôn nữa. Người Anh đã lập ra một độc quyền kim cương và đã thử không cho phép các nhà khai mỏ Phi châu. Các chính phủ sau độc lập đã làm y thế. Đúng là, người Anh đã nghĩ rằng xây dựng đường sắt đã là cách tốt để cai trị Mendeland, còn Siaka Stevens thì đã nghĩ ngược lại. Người Anh đã có thể tin cậy quân đội của họ và đã biết nó có thể được điều động đến Mendeland nếu một cuộc nổi loạn nảy sinh. Stevens, ngược lại, đã không thể làm như vậy. Như ở nhiều quốc gia Phi châu khác, một quân đội mạnh có thể trở thành mối đe dọa đối với sự cai trị của Stevens. Chính vì lý do này mà ông ta đã hoạn quân đội, cắt giảm nó và tư nhân hóa bạo lực thông qua các đơn vị nửa vũ trang được tạo ra một cách đặc biệt chỉ trung thành với ông ta, và trong quá trình này, ông đã làm tăng tốc sự suy sụp của quyền lực nhà nước ít ỏi mà đã tồn tại ở Sierra Leone. Thay cho quân đội, đầu tiên đã là Đơn vị An ninh Nội địa (Internal Security Unit), ISU, mà dân Sierra Leone chịu đau khổ từ lâu đã nhận biết như “I Shoot U – Tao Bắn Mày.” Rồi đến Sư đoàn An ninh Đặc biệt (Special Security Division), SSD, mà nhân dân nhận biết như “Siaka Stevens’s Dogs – Những con Chó của Siaka Stevens.” Cuối cùng, việc thiếu một quân đội ủng hộ chế độ cũng đã là nguyên nhân sụp đổ của nó. Chính một nhóm chỉ có ba mươi lính, đứng đầu bởi Đại úy Valentine Strasser, là cái đã hất chế độ APC khỏi quyền lực vào ngày 29 tháng Tư, 1992.
Sự phát triển, hay sự thiếu phát triển, của Sierra Leone đã có thể được hiểu kỹ nhất như kết quả của vòng luẩn quẩn. Trước hết, các nhà chức trách thuộc địa Anh đã xây dựng các thể chế khai thác, và các chính trị gia Phi châu sau độc lập đã rất vui vẻ nắm lấy gậy chỉ huy cho bản thân họ. Hình mẫu đã tương tự một cách bí hiểm đáng sợ trên toàn bộ châu Phi hạ-Sahara. Đã có những hy vọng tương tự cho Ghana, Kenya, Zambia, và nhiều nước Phi châu sau độc lập. Thế nhưng, trong tất cả các trường hợp, các thể chế khai thác đã được tái tạo lại theo một hình mẫu được tiên đoán bởi vòng luẩn quẩn – chúng chỉ trở nên đồi bại hơn với thời gia trôi qua. Trong tất cả các nước này, chẳng hạn, các hội đồng marketing và sự cai trị gián tiếp do người Anh tạo ra đã được duy trì.
Có các lý do tự nhiên cho vòng luẩn quẩn này. Các thể chế chính trị khai thác dẫn dến các thể chế kinh tế khai thác, mà làm giàu cho một số ít làm tổn hại đến nhiều người. Những người được hưởng lợi từ các thể chế khai thác, như vậy có các nguồn lực để xây dựng các quân đội (tư nhân) và các lính đánh thuê của họ, để mua chuộc các thẩm phán, và để gian lận các cuộc bầu cử nhằm ở lại nắm quyền. Họ cũng có mọi lợi ích trong bảo vệ hệ thống. Vì thế, các thể chế kinh tế khai thác tạo ra cái nền cho các thể chế chính trị khai thác tồn tại dai dẳng. Quyền lực là có giá trị trong các chế độ với các thể chế chính trị khai thác, bởi vì quyền lực không bị kiềm chế và mang lại sự giàu có kinh tế.
Các thể chế chính trị khai thác cũng không cung cấp sự kiểm soát nào chống lại sự lạm dụng quyền lực. Liệu quyền lực có gây đồi bại hay không còn đáng tranh cãi, nhưng Lord Acton đã chắc chắn đúng khi ông cho rằng quyền lực tuyệt đối gây đồi bại tuyệt đối. Chúng ta đã thấy ở chương trước rằng ngay cả khi Franklin Roosevelt đã muốn sử dụng quyền lực tổng thống của mình theo một cách mà ông nghĩ là có lợi cho xã hội, đã bị cản trở bởi các ràng buộc do Tòa án Tối cao áp đặt, các thể chế chính trị bao gồm của Hoa Kỳ đã ngăn ngừa việc ông muốn dẹp các ràng buộc lên quyền lực của ông sang một bên. Dưới các thể chế chính trị khai thác, có ít sự kiềm chế chống lại việc sử dụng quyền lực, dẫu nó có thể trở nên bị bóp méo và rối loạn nhân cách chống đối xã hội (sociopathic) đến thế nào. Trong năm 1980 Sam Bangura, thống đốc khi đó của ngân hàng trung ương Sierra Leone, đã phê phán các chính sách của Siaka Stevens là các chính sách hoang toàng. Không lâu sau ông đã bị giết và bị quăng từ tầng trên cùng của tòa nhà ngân hàng trung ương xuống con đường được đặt tên thích hợp là Đường Siaka Stevens. Các thể chế chính trị khai thác, như thế cũng có xu hướng tạo ra một vòng luẩn quẩn bởi vì chúng không tạo ra tuyến phòng thủ nào chống lại những người muốn thúc đẩy sự chiếm đoạt và sự lạm dụng quyền lực nhà nước.
Còn một cơ chế khác nữa cho vòng luẩn quẩn là, các thể chế khai thác, bằng cách tạo ra quyền lực không bị kiềm chế và sự bất bình đẳng thu nhập lớn, làm tăng sự đặt cược chính trị của trò chơi chính trị. Bởi vì bất cứ ai kiểm soát nhà nước đều trở thành người hưởng quyền lực quá đáng này và của cải mà nó đẻ ra, các thể chế khai thác tạo ra các khuyến khích cho việc đấu đá nội bộ nhằm kiểm soát quyền lực và các lợi ích của nó, một động lực mà chúng ta thấy đã hoạt động ở các thành-quốc Maya và ở Rome Cổ xưa. Dưới ánh sáng này, không ngạc nhiên rằng các thể chế khai thác, mà nhiều nước Phi châu đã thừa kế từ các cường quốc thuộc địa, đã gieo hạt của các cuộc tranh giành quyền lực và các cuộc nội chiến. Các cuộc đấu tranh này là các xung đột rất khác với Nội chiến Anh và Cách mạng Vinh quang. Chúng đã không được chiến đấu để làm thay đổi các thể chế chính trị, để đưa ra các ràng buộc lên việc sử dụng quyền lực, hay để tạo ra chủ nghĩa đa nguyên, mà để chiếm quyền và làm giàu cho một nhóm với sự tổn hại của những người còn lại. Ở Angola, Burundi, Chad, Côte d’Ivoire, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ethiopia, Liberia, Mozambique, Nigeria, Cộng hòa Congo Brazzaville, Rwanda, Somalia, Sudan, và Uganda, và tất nhiên ở Sierra Leone, như chúng ta sẽ thấy chi tiết hơn trong chương tiếp theo, những xung đột này đã biến thành các cuộc nội chiến đẫm máu và tạo ra sự đổ nát kinh tế và sự đau khổ con người không đâu sánh kịp – cũng như gây ra sự thất bại nhà nước.

TỪ ENCOMIENDA ĐẾN SỰ CHIẾM ĐOẠT ĐẤT
Ngày 14-1-1993, Ramiro De León Carpio đã tuyên thệ với tư cách tổng thống Guatemala. Ông đã bổ nhiệm Richard Aitkenhead Castillo làm bộ trưởng tài chính, và Ricardo Castillo Sinibaldi làm bộ trưởng phát triển của mình. Cả ba người này đã có cái gì đó chung: tất cả họ đều là những hậu duệ trực tiếp của các nhà chinh phục Tây Ban Nha những người đã đến Guatemala vào đầu thế kỷ thứ mười sáu. Tổ tiên rạng rỡ của De León đã là Juan De León Cardona, trong khi nhà Castillo có quan hệ họ hàng với Bernal Díaz del Castillo, người đã viết một trong những tường thuật nhân chứng nổi tiếng nhất về sự chinh phục Mexico. Để tưởng thưởng sự phục vụ của ông cho Hernán Cortés, Díaz del Castillo đã được chỉ định làm thống đốc Santiago de los Caballeros, mà ngày nay là thành phố Antigua ở Guatemala. Cả Castillo và De León đã thành lập các triều đại cùng với các nhà chinh phục khác, như Pedro de Alvarado. Nhà xã hội học Guatemala Marta Casaús Arzú đã nhận diện một nhóm lõi gồm hai mươi dòng họ ở Guatemala mà đã có các liên kết thông qua hôn nhân với hai mươi sáu dòng họ khác ở bên ngoài nhóm lõi. Nghiên cứu phả hệ và chính trị của bà đã gợi ý rằng những dòng họ này đã kiểm soát quyền lực kinh tế và chính trị ở Guatemala từ năm 1531. Một định nghĩa thậm chí rộng hơn về các dòng họ nào đã là phần của giới elite này đã gợi ý rằng họ chỉ chiếm hơn 1 phần trăm dân cư trong các năm 1990.
Ở Sierra Leone và ở phần lớn châu Phi hạ-Sahara, vòng luẩn quẩn đã có dạng của các thể chế khai thác được các cường quốc thuộc địa dựng lên và được tiếp quản bởi các nhà lãnh đạo sau độc lập. Ở Guatemala, như ở phần lớn Trung Mỹ, chúng ta thấy một dạng đơn giản hơn, trần trụi hơn của vòng luẩn quẩn: những người có quyền lực kinh tế và chính trị đã sắp đặt các thể chế để bảo đảm tính liên tục của quyền lực của họ, và họ đã thành công trong việc làm như vậy. Loại này của vòng luẩn quẩn dẫn đến sự tồn tại dai dẳng của các thể chế khai thác và sự tồn tại dai dẳng của cùng các elite nắm quyền lực, cùng với sự tồn tại dai dẳng của của sự chậm phát triển.
Vào thời chinh phục, Guatemala đã được định cư đông đúc, có lẽ với một dân số khoảng hai triệu người Maya. Bệnh tật và sự bóc lột đã tiêu diệt một phần lớn như ở mọi nơi khác ở châu Mỹ. Đã chỉ đến các năm 1920 thì toàn bộ dân số mới quay về mức này. Như ở các nơi khác trong Đế chế Tây Ban Nha, những người bản xứ bị phân vào các encomienda được ban cho các nhà chinh phục. Như chúng ta đã thấy trong bối cảnh của sự thuộc địa hóa Mexico và Peru, encomienda đã là một hệ thống lao động cưỡng bức, mà sau đó đã nhường đường cho các thể chế cưỡng bách khác tương tự, đặc biệt là repartimiento, cũng được gọi là mandamiento ở Guatemala. Elite, gồm các hậu duệ của các nhà chinh phục và một số yếu tố bản địa, không chỉ đã hưởng lợi từ các hệ thống lao động cưỡng bức khác nhau mà cũng đã kiểm soát và độc quyền hóa thương mại thông qua một phường hội nhà buôn được gọi là Consulado de Comercio. Hầu hết dân cư ở Guatemala đã ở trên núi cao và xa bờ biển. Chi phí giao thông cao đã làm giảm mức độ xuất khẩu của nền kinh tế, và ban đầu đất đã không có nhiều giá trị. Phần lớn đất đã vẫn trong tay những người bản xứ, những người đã có các khu ruộng chung lớn được gọi là ejido. Phần còn lại đã chủ yếu là đất không được chiếm giữ và trên danh nghĩa do chính phủ sở hữu. Đã có nhiều tiền trong kiểm soát và đánh thuế buôn bán, như đã là vậy, hơn là kiểm soát đất.
Đúng như ở Mexico, elite Guatemala đã xem xét Hiến pháp Cadiz (trang 28-32) với sự thù nghịch, mà đã khuyến khích họ để tuyên bố độc lập đúng như các elite Mexico đã làm. Tiếp sau một sự hợp nhất ngắn với Mexico và Liên hiệp Trung Mỹ, elite thuộc địa đã cai trị Guatemala dưới chế độ độc tài của Rafael Carrera từ 1839 đến 1871. Trong thời kỳ này các hậu duệ của các nhà chinh phục và elite bản xứ đã duy trì các thể chế kinh tế khai thác của thời kỳ thuộc địa phần lớn không thay đổi. Ngay cả tổ chức Consulado đã không thay đổi sau độc lập. Mặc dù đấy đã là một thể chế hoàng gia, nó đã vui vẻ tiếp tục dưới một chính phủ cộng hòa.
Sự độc lập sau đó đã đơn giản là một cuộc đảo chính bởi elite địa phương đã tồn tại từ trước, đúng như ở Mexico; họ đã tiếp tục như thường lệ với các thể chế kinh tế khai thác mà từ đó họ đã hưởng lợi rất nhiều. Khá mỉa mai, trong thời kỳ này Consulado đã vẫn chịu trách nhiệm về phát triển kinh tế của nước này. Nhưng như đã đúng trước thời độc lập, trong thâm tâm Consulado đã có lợi ích riêng của nó, chứ không phải các lợi ích của đất nước. Một phần trách nhiệm của nó đã là phát triển hạ tầng cơ sở, như các cảng và đường sá, nhưng như ở Áo-Hungary, Nga, và Sierra Leone, việc này thường bị sự phá hủy sáng tạo đe dọa và đã có thể làm mất ổn định hệ thống. Vì thế, phát triển hạ tầng cơ sở, thay cho được thực hiện, thì đã thường bị cưỡng lại. Chẳng hạn, việc phát triển một cảng ở bờ biển Suchitepéquez, tiếp giáp với Thái Bình Dương, đã là một trong những dự án được đề xuất. Vào thời đó các cảng thích hợp duy nhất đã ở bên bờ Caribe, và đã được Consulado kiểm soát. Consulado đã chẳng làm gì ở bên Thái Bình Dương bởi vì một cảng ở vùng đó sẽ đã tạo một lối ra dễ hơn rất nhiều cho hàng hóa từ các thành phố cao nguyên Mazatenango và Quezaltenango, và sự tiếp cận đến một thị trường khác cho các hàng hóa này làm xói mòn độc quyền ngoại thương của Consulado. Cùng logic đã áp dụng cho đường sá, nơi, lần nữa, Consulado đã có trách nhiệm cho toàn bộ đất nước. Có thể tiên đoán được rằng nó cũng đã từ chối để xây dựng đường sá mà có thể củng cố các nhóm cạnh tranh hay có tiềm năng phá hoại độc quyền của nó. Áp lực để làm như vậy lại đến từ miền tây Guatemala và Quezaltenango, ở vùng Los Altos. Nhưng nếu đường giữa Los Altos và bờ Suchitepéquez được cải thiện, thì việc này đã có thể tạo ra một tầng lớp nhà buôn, mà là một đối thủ cạnh tranh với Consulado, các nhà buôn ở thủ đô. Đường đã không được cải thiện.
Như một kết quả của sự chi phối này của elite, Guatemala đã bị mắc trong một sự sai lạc thời gian (cuộn thời gian) vào giữa thế kỷ thứ mười chín, khi phần còn lại của thế giới thay đổi nhanh chóng. Nhưng những thay đổi này cuối cùng đã tác động đến Guatemala. Chi phí giao thông giảm do những đổi mới công nghệ như tàu hơi nước, đường sắt, và các loại tàu thủy nhanh hơn nhiều. Hơn nữa, thu nhập tăng lên của người dân ở Tây Âu và Bắc Mỹ đã tạo ra cầu hàng loạt đối với nhiều sản phẩm mà một nước như Guatemala đã có thể có tiềm năng sản xuất.
Đầu thế kỷ, một số bột chàm và sau đó phẩm son, cả hai là các thuốc nhuộm tự nhiên, đã được sản xuất cho xuất khẩu, nhưng cơ hội sinh lời hơn đã là sản xuất cà phê. Guatemala có nhiều đất phù hợp cho cà phê, và việc trồng đã bắt đầu lan ra – mà không có sự giúp đỡ nào từ Consulado. Khi giá cà phê thế giới tăng lên và buôn bán quốc tế được mở rộng, đã có các khoản lợi nhuận khổng lồ để kiếm, và elite Guatemala đã bắt đầu quan tâm đến cà phê. Trong năm 1871 chế độ kéo dài của nhà độc tài Carrera cuối cùng đã bị lật đổ bởi một nhóm người tự gọi mình là Liberal (những người theo chủ nghĩa Tự do), theo phong trào rộng khắp thế giới có cái tên đó. Chủ nghĩa khai phóng (chủ nghĩa tự do-liberalism) có nghĩa là gì đã thay đổi theo thời gian. Nhưng trong thế kỷ thứ mười chín ở Hoa Kỳ và châu Âu, nó đã là tương tự như cái ngày nay được gọi là chủ nghĩa tự do (libertarianism), và đã có nghĩa là quyền tự do của các cá nhân, chính phủ hạn chế, và tự do thương mại. Các thứ đã hơi khác ở Guatemala. Ban đầu được lãnh đạo bởi Miguel García Granados, và sau 1873 bởi Justo Rufino Barrios, các Liberal Guatemala, phần lớn, đã không phải là những người mới với các lý tưởng tự do phóng khoáng. Nhìn chung, vẫn cũng các gia đình đó chịu trách nhiệm. Họ đã duy trì các thể chế chính trị khai thác và đã thực hiện một sự tái tổ chức khổng lồ đối với nền kinh tế để khai thác cà phê. Họ đã xóa bỏ Consulado năm 1871, nhưng hoàn cảnh kinh tế đã thay đổi. Sự chú tâm vào các thể chế kinh tế khai thác bây giờ là sản xuất và xuất khẩu cà phê.
Sản xuất cà phê đã cần đến đất và lao động. Để tạo ra đất cho các trang trại cà phê, những người Liberal đã làm đến cùng việc tư nhân hóa đất đai, trên thực tế là một sự chiếm đoạt đất đai mà trong đó họ có khả năng chiếm đất mà trước kia là đất chung hay đất của chính phủ. Mặc dù cố gắng của họ đã bị tranh cãi gay gắt, căn cứ vào các thể chế chính trị hết sức khai thác và sự tập trung của quyền lực chính trị ở Guatemala, cuối cùng elite đã thắng. Giữa 1871 và 1883 gần một triệu mẫu (acre) đất, hầu hết là đất chung của người bản xứ và đất biên cương, đã chuyển vào tay elite, và chỉ sau đó cà phê mới phát triển nhanh chóng. Mục đích đã là hình thành các khu đất lớn. Đất được tư nhân hóa đã được bán đấu giá một cách điển hình cho elite truyền thống hay những người có mối quan hệ với họ. Quyền lực ép buộc của nhà nước Liberal sau đó đã được dùng để giúp những địa chủ lớn này có được sự tiếp cận đến lao động bằng cách phỏng theo và tăng cường những hệ thống lao động cưỡng bức khác nhau. Trong tháng Mười Một 1876, Tổng thống Barrios đã viết cho tất cả các thống đốc của Guatemala lưu ý rằng
bởi vì nước ta có các vùng đất rộng mà cần để khai thác bằng trồng cây sử dụng nhiều người lao động mà ngày nay họ vẫn ở bên ngoài phong trào phát triển các yếu tố sản xuất của quốc gia, các ông phải cho mọi sự giúp đỡ cho nền nông nghiệp xuất khẩu:
1. Từ các thị trấn Indian thuộc phạm vi quyền hạn của các ông để cung cấp cho các chủ fincas [trang trại] ở vùng đó những người yêu cầu số người lao động họ cần, dù là năm mươi hay một trăm.
Repartimiento, việc bắt người lao động cưỡng bức, đã chẳng bao giờ bị bãi bỏ sau độc lập, nhưng bây giờ nó đã được tăng về quy mô và thời gian. Nó đã được thể chế hóa trong năm 1877 bởi Sắc lệnh 177, quy định rằng những người sử dụng lao động có thể yêu cầu và nhận từ chính phủ cho đến sáu mươi người lao động cho mười lăm ngày làm việc nếu bất động sản ở trong cùng hạt, và cho ba mươi ngày nếu nó đã nằm ngoài. Yêu cầu đã có thể được nhắc lại nếu người chủ muốn vậy. Những người lao động này đã có thể được tuyển bằng vũ lực trừ phi họ đã có thể chứng tỏ từ sổ lao động cá nhân của họ rằng dịch vụ như vậy mới được họ thực hiện một cách thỏa mãn gần đây. Tất cả những người lao động nông thôn cũng đã buộc phải mang một sổ lao động, được gọi là một libreta, mà bao gồm các chi tiết họ đã làm việc cho ai và một sự ghi chép về bất cứ khoản nợ nào. Nhiều người lao động nông thôn đã bị nợ các ông chủ của mình, và một người lao động mắc nợ đã không thể rời người chủ sử dụng lao động hiện thời của mình mà không có sự cho phép. Sắc lênh 177 còn đã quy định thêm rằng cách duy nhất để bạn tránh bị bắt vào repartimiento đã là chứng minh rằng bạn hiện đang mắc nợ một người sử dụng lao động. Những người lao động bị sập bẫy. Ngoài các luật này ra, vô số luật lang thang đã được thông qua sao cho bất cứ ai không thể chứng minh là có một việc làm lập tức bị bắt ở trên đường để đưa vào repartimiento hay các loại khác của lao động cưỡng bức, hay bị ép buộc chấp nhận việc làm trong một trang trại. Như ở Nam Phi thế kỷ thứ mười chín và thế kỷ thứ hai mươi, các chính sách đất sau năm 1871 đã cũng được thiết kế để làm xói mòn nền kinh tế ở mức tồn tại qua ngày của những người bản xứ, để buộc họ làm việc với lương thấp. Repartimiento đã tồn tại đến các năm 1920; hệ thống libreta và cả loạt luật lang thang đã có hiệu lực cho đến 1945, khi Guatemala trải qua sự nở rộ dân chủ ngắn ngủi.
Đúng như trước 1871, elite Guatemala đã cai trị qua những người lính mạnh mẽ. Họ đã tiếp tục làm vậy sau khi đợt hưng thịnh bột phát về cà phê cất cánh. Jorge Ubico, tổng thống giữa 1931 và 1944, đã cai trị dài nhất. Ubico đã thắng cuộc bầu cử tổng thống năm 1931 không gặp sự đối lập, vì đã không ai đủ xuẩn ngốc để ra ứng cử chống lại ông. Giống Consulado, ông đã không chuẩn y việc làm các thứ mà có thể gây ra sự phá hủy sáng tạo và đe dọa cả quyền lực chính trị của ông và các khoản lợi nhuận của elite. Vì thế ông đã chống lại công nghiệp vì cùng lý do mà Francis I ở Áo-Hungary và Nicholas I ở Nga đã chống: các công nhân công nghiệp đã có thể gây rắc rối. Trong một luật không có gì sánh được về sự hà khắc hoang tưởng, Ubico đã cấm việc sử dụng các từ như obreros (các công nhân), sindicatos (các nghiệp đoàn lao động), và huelgas (các cuộc đình công). Bạn đã có thể bị bỏ tù vì việc sử dụng bất cứ từ nào trong số đó. Cho dù Ubico đã hùng mạnh, elite đã giật giây. Sự phản đối chế độ của ông đã tăng lên trong năm 1944, dẫn đầu bởi các sinh viên đại học bất mãn, những người đã bắt đầu tổ chức các cuộc biểu tình. Sự bất mãn của nhân dân đã tăng lên, và ngày 24 tháng Sáu, 311 người, nhiều trong số đó từ giới elite, đã ký Memorial de los 311, một bức thư ngỏ lên án chế độ. Ubico đã từ chức ngày 1 tháng Bảy. Mặc dù tiếp sau ông đã là một chế độ dân chủ trong năm 1945, chế độ này đã bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính năm 1954, dẫn đến một cuộc nội chiến giết người. Guatemala đã lại dân chủ hóa chỉ sau 1986.
Những người chinh phục Tây Ban Nha đã không có sự hối hận nào về việc dựng lên một hệ thống chính trị và kinh tế khai thác. Đó là vì sao họ đã từ xa đến Thế giới Mới. Nhưng hầu hết các thể chế mà họ dựng lên đã dự định là tạm thời. Thí dụ, encomienda đã là một sự cấp tạm thời các quyền đối với lao động. Họ đã không có một kế hoạch được vạch ra đầy đủ về họ sẽ dựng lên một hệ thống thế nào mà sẽ tồn tại dai dẳng trong bốn trăn năm nữa. Thực ra, các thể chế họ dựng lên đã thay đổi đáng kể suốt dọc đường, nhưng một thứ đã không: bản chất khai thác của các thể chế, kết quả của vòng luẩn quẩn. Dạng khai thác đã thay đổi, nhưng cả bản chất khai thác của các thể chế lẫn bản sắc của elite đã không. Ở Guatemala encomienda, repartimiento, và sự độc quyền hóa thương mại đã chịu thua libreta và sự chiếm đoạt đất. Nhưng đa số người Maya bản xứ đã tiếp tục làm việc như những người lao động lương thấp với ít giáo dục, không có quyền nào, và không dịch vụ công nào.
Ở Guatemala, như ở phần lớn Trung Mỹ, theo một hình mẫu điển hình của vòng luẩn quẩn, các thể chế chính trị khai thác ủng hộ các thể chế kinh tế khai thác, mà đến lượt lại cung cấp cơ sở cho các thể chế chính trị khai thác và sự tiếp tục của quyền lực của cùng elite.
 TỪ CẢNH NÔ LỆ ĐẾN JIM CROW
Ở Guatemala, các thể chế khai thác đã tồn tại dai dẳng từ thời thuộc địa đến thời hiện đại với cùng giới elite nắm quyền kiểm soát vững chắc. Bất cứ sự thay đổi nào về các thể chế như kết quả từ những sự thích nghi với môi trường đang thay đổi, như trường hợp chiếm đoạt đất bởi elite được thúc đẩy bởi đợt hưng phát cà phê. Các thể chế ở miền Nam Hoa Kỳ đã là khai thác một cách tương tự cho đến Nội Chiến. Hoạt động kinh tế và chính trị đã bị chi phối bởi elite miền nam, các chủ đồn điền với đất rộng và chiếm hữu nô lệ. Các nô lệ đã không có quyền chính trị cũng đã chẳng có các quyền kinh tế; quả thực họ đã có ít quyền thuộc bất cứ loại nào.
Các thể chế kinh tế và chính trị khai thác của miền Nam đã làm cho nó nghèo hơn miền Bắc một cách đáng kể vào giữa thế kỷ thứ mười chín. Miền Nam đã thiếu công nghiệp và đã đầu tư tương đối ít vào hạ tầng cơ sở. Trong năm 1860 toàn bộ sản lượng chế tác của nó đã ít hơn sản lượng của Pennsylvania, New York, hay Massachusetts. Chỉ 9 phần trăm dân số miền Nam đã sống trong các vùng đô thị, so với 35 phần trăm ở vùng Đông Bắc. Mật độ đường sắt (tức là, số dặm đường ray chia cho diện tích đất) ở các bang miền Bắc đã cao hơn ba lần ở các bang miền Nam. Tỷ lệ độ dài kênh rạch cũng đã tương tự.
 Bản đồ 18 cho thấy mức độ của tình trạng nô lệ được vẽ bằng tỷ lệ phần trăm dân số mà đã là nô lệ tại các quận Hoa Kỳ trong năm 1840. Rõ rành rành tình trạng nô lệ đã trội ở miền Nam, với một số quận, chẳng hạn, dọc Sông Mississippi có đến 95 phần trăm dân cư đã là nô lệ. Rồi Bản đồ 19 cho thấy một trong những hệ quả của điều này, tỷ lệ lực lượng lao động làm việc trong ngành chế tác trong năm 1880. Mặc dù tỷ lệ này đã không cao ở bất cứ đâu theo tiêu chuẩn của thế kỷ thứ hai mươi, có những sự khác biệt nổi bật giữa miền Bắc và miền Nam. Trong phần lớn của Đông Bắc, hơn 10 phần trăm lực lượng lao động đã làm việc trong ngành chế tác. Ngược lại ở phần lớn của miền Nam, đặc biệt ở các vùng với sự tập trung cao nô lệ, tỷ lệ về cơ bản đã là zero.
Miền Nam đã thậm chí không đổi mới ở các khu vực mà trong đó nó đã chuyên môn hóa: từ 1837 đến 1859, số bằng sáng chế được cấp hàng năm cho những đổi mới liên quan đến ngô và lúa mỳ trung bình đã là mười hai và mười, một cách tương ứng; đã chỉ có một bằng sáng chế trên một năm cho cây trồng quan trọng nhất của miền Nam, bông. Đã không có chỉ báo nào rằng công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế sẽ bắt đầu sớm bất cứ lúc nào. Nhưng tiếp theo sự thất bại trong Nội Chiến đã là cải cách kinh tế và chính trị cơ bản trên đầu lưỡi lê. Chế độ nô lệ bị bãi bỏ, và những người đàn ông da đen đã được phép đi bầu.
 Những thay đổi lớn này đã phải mở đường cho một sự biến đổi triệt để của các thể chế khai thác miền nam thành các thể chế bao gồm, và phóng miền Nam lên con đường tới thịnh vượng kinh tế. Nhưng trong một sự biểu thị khác nữa của vòng luẩn quẩn, chẳng có gì như vậy đã xảy ra. Một sự tiếp tục của các thể chế khai thác, lần này thuộc loại Jim Crow hơn là cảnh nô lệ, đã nổi lên ở miền Nam. Cụm từ Jim Crow, mà được cho là đã có xuất xứ từ “Jump Jim Crow,” một tác phẩm ca múa trào phúng đầu thế kỷ thứ mười chín về những người da đen do những người da trắng hóa trang, bôi “mặt đen,” biểu diễn, để nói đến toàn bộ cung bậc của luật pháp phân biệt chủ nghĩa mà được ban hành ở miền Nam sau năm 1865. Những thứ này đã vẫn dai dẳng trong gần một thế kỷ nữa, cho đến một sự chấn động lớn khác nữa, phong trào các quyền dân sự. Trong khi ấy, những người da đen đã tiếp tục bị loại trừ khỏi quyền lực và bị đàn áp. Ngành nông nghiệp kiểu đồn điền đã dựa trên lương thấp, lao động được giáo dục tồi vẫn đã tồn tại, và thu nhập miền nam đã giảm thêm tương đối so với thu nhập trung bình ở Hoa Kỳ. Vòng luẩn quẩn của các thể chế khai thác đã mạnh hơn mức nhiều người đã kỳ vọng vào lúc đó.
Lý do của chuyện quỹ đạo kinh tế và chính trị của miền Nam đã chẳng thay đổi, cho dù chế độ nô lệ đã bị xóa bỏ và những người đàn ông da đen đã được trao quyền bầu cử, là bởi vì sức mạnh chính trị và sự độc lập kinh tế của những người da đen đã mỏng manh. Các chủ đồn điền miền nam đã thua chiến tranh, nhưng thắng hòa bình. Họ đã vẫn tổ chức và đã vẫn sở hữu đất. Trong chiến tranh, khi chế độ nô lệ được bãi bỏ, người ta đã hứa cho mỗi nô lệ được giải phóng bốn mươi mẫu đất và một con la, và một số người thậm chí đã nhận được trong thời gian các chiến dịch nổi tiếng của Tướng William T. Sherman. Nhưng năm 1865, Tổng thống Andrew Johnson đã thu hồi các mệnh lệnh của Sherman, và việc chia lại ruộng đất được hy vọng đã chẳng bao giờ xảy ra. Trong một tranh luận về vấn đề này tại Quốc hội, Nghị sĩ George Washington Julian đã nhận xét một cách tiên tri, “Một đạo luật của Quốc hội xóa bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ phỏng có ích gì … nếu cơ sở nông nghiệp cũ của quyền lực quý tộc vẫn còn đó?” Đấy đã là sự khởi đầu của “sự chuộc lại” của miền Nam cũ và sự tồn tại bền bỉ của elite miền nam cũ sở hữu đất.
Nhà xã hội học Jonathan Wiener đã nghiên cứu tính bền bỉ của elite chủ đồn điền ở năm quận của Black Belt (Vành đai Đen), các quận sản xuất bông hàng đầu, ở nam Alabama. Lần theo dấu vết của các gia đình từ số liệu tổng điều tra dân số Hoa Kỳ và xem xét các gia đình có ít nhất $10.000 bất động sản, ông đã thấy rằng trong số 236 thành viên của elite chủ đồn điền trong năm 1850, thì 101 vẫn đã duy trì vị trí của họ trong năm 1870. Lý thú là, tỷ lệ này của tính bền bỉ đã rất giống tỷ lệ đã thấy trong thời kỳ trước Nội Chiến; trong số 236 gia đình chủ đồn điền giàu có nhất của năm 1850, chỉ còn 110 gia đình như vậy sau một thập kỷ. Tuy nhiên, trong số 25 chủ đồn điền với số ruộng lớn nhất trong năm 1870, có 18 chủ đồn điền (72 phần trăm) đã ở trong các gia đình elite năm 1860; 16 đã ở trong nhóm elite năm 1850. Trong khi hơn 600.000 người đã bị giết trong Nội Chiến, các elite chủ đồn điền đã chịu ít thương vong. Luật, do các chủ đồn điền thiết kế và để cho các chủ đồn điền, đã miễn trừ nghĩa vụ quân sự cho một chủ nô đối với mỗi hai mươi nô lệ được giữ. Khi hàng trăm ngàn người đã chết để giữ gìn nền kinh tế đồn điền miền nam, thì nhiều chủ nô lớn và các con trai của họ đã ngồi rồi trên hành lang của mình không tham gia chiến tranh và như thế đã bảo đảm tính bền bỉ của nền kinh tế đồn điền.
Sau khi chiến tranh kết thúc, các chủ đồn điền elite kiểm soát đất đã có khả năng sử dụng lại sự kiểm soát của họ đối với lực lượng lao động. Mặc dù thể chế kinh tế của chế độ nô lệ đã bị xóa bỏ, bằng chứng cho thấy một đường nét rõ ràng của sự dai dẳng trong hệ thống kinh tế của miền Nam dựa trên nền nông nghiệp kiểu đồn điền với lao động rẻ. Hệ thống kinh tế này đã được duy trì thông qua các kênh phong phú khác nhau, kể cả sự kiểm soát chính trị địa phương và sử dụng vũ lực. Như một hệ quả, dùng lời của học giả Mỹ gốc Phi W.E.B. Du Bois, miền Nam đã trở thành “đơn giản một doanh trại lính vũ trang để đe dọa người da đen.”
Trong năm 1865 cơ quan lập pháp bang Alabama đã thông qua Bộ luật Người da đen (Black Code), một cột mốc quan trọng hướng tới sự trấn áp lao động da đen. Giống như Sắc lệnh 177 ở Guatemala, Bộ luật Người da đen của Alabama đã gồm một luật lang thang và một luật chống lại “sự dụ dỗ” những người lao động chân tay. Nó đã được thiết kế để cản trở tính di động của lao động và làm giảm cạnh tranh trong thị trường lao động, và nó bảo đảm rằng các chủ đồn điền miền nam sẽ vẫn có một nguồn lao động giá rẻ đáng tin cậy.
Tiếp sau Nội Chiến, thời kỳ được gọi là Khôi phục đã kéo dài từ 1865 đến 1877. Các chính trị gia miền Bắc, với sự giúp đỡ của Quân đội Liên Hiệp, đã sắp đặt một số thay đổi xã hội ở miền Nam. Nhưng một sự giật lùi mang tính hệ thống từ elite miền nam dưới chiêu bài ủng hộ cái gọi là Những người Chuộc lại, tìm kiếm sự chuộc lại miền Nam, đã tái tạo hệ thống cũ. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1877, Rutherford Hayes đã cần đến sự ủng hộ miền nam trong đại hội đại biểu cử tri (electoral college). Đại hội đại biểu này, vẫn được dùng ngày nay, đã là thực chất của sự bầu tổng thống gián tiếp được Hiến pháp Hoa Kỳ tạo ra. Các phiếu bầu của các công dân không bầu tổng thống một cách trực tiếp mà thay vào đó bầu ra các đại cử tri những người sau đó chọn tổng thống trong đại hội đại biểu cử tri. Để đổi lại sự ủng hộ của họ trong đại hội đại biểu cử tri, những người miền nam đã đòi binh lính Quân đội Liên Hiệp rút khỏi miền Nam và để vùng này tự lo liệu. Hayes đã đồng ý. Với sự ủng hộ của miền nam, Hayes đã trở thành tổng thống và đã rút binh lính. Rồi thời kỳ sau 1877 đã đánh dấu sự nổi lên lại của elite chủ đồn điền trước Nội Chiến. Sự chuộc lại của miền Nam đã dính dáng đến việc đưa vào các loại thuế thân mới và các cuộc kiểm tra biết đọc biết viết cho việc bầu cử, mà đã tước một cách có hệ thống quyền bầu cử của những người da đen, và thường cả của dân cư da trắng nghèo. Các mưu toan này đã thành công và đã tạo ra một chế độ một đảng dưới Đảng Dân chủ, với phần lớn quyền lực chính trị rơi vào tay elite chủ đồn điền.
Các luật Jim Crow đã tạo ra các trường tách biệt, và có thể tiên đoán được là kém. Thí dụ, Alabama đã viết lại hiến pháp của nó trong năm 1901 để đạt được điều này. Thật sốc, ngay cả ngày nay Đoạn 256 của hiến pháp Alabama, mặc dù không còn được thực thi nữa, vẫn tuyên bố:
Nghĩa vụ của cơ quan lập pháp là thiết lập và duy trì hệ thống trường công; phân chia quỹ trường công; tách riêng các trường học cho trẻ em da trắng và trẻ em da màu.
Cơ quan lập pháp sẽ thiết lập, tổ chức, và duy trì một hệ thống tự do của các trường công trên khắp bang vì lợi ích của trẻ em giữa bảy tuổi và hai mươi mốt tuổi. Quỹ trường công sẽ được phân chia cho nhiều quận (county) theo tỷ lệ số trẻ em đi học ở độ tuổi đó, và sẽ được phân chia cho các trường trong các huyện (district) hay các thị trấn của quận đó theo cách để chu cấp, càng gần mức có thể làm được càng tốt, cho các kỳ học dài bằng nhau ở các quận hay thị trấn có trường như vậy. Các trường tách biệt sẽ được cung cấp cho trẻ em da trắng và trẻ em da màu, và không trẻ em nào của của mỗi chủng tộc được phép học ở trường của chủng tộc khác.
Một sự sửa đổi để bỏ Đoạn 256 khỏi hiến pháp đã bị đánh bại một cách sít sao trong cơ quan lập pháp bang trong năm 2004.
Sự tước quyền bầu cử, các luật lang thang như Bộ luật Người Da đen của Alabama, hay các luật Jim Crow khác nhau, và những hành động của Ku Klux Klan, thường được cấp tài chính và được ủng hộ bởi elite, đã biến miền Nam sau Nội Chiến thành một xã hội apartheid thật sự, nơi những người da đen và da trắng đã sống những cuộc sống khác nhau. Như ở Nam Phi, các luật và các tập quán này đã nhắm đến việc kiểm soát dân cư da đen và lao động của nó.
Các chính trị gia miền nam ở Washington cũng đã làm việc để bảo đảm rằng các thể chế khai thác của miền Nam vẫn còn. Thí dụ, họ đã bảo đảm rằng không dự án hay công trình công cộng liên bang nào, mà đã có thể gây nguy hiểm đến sự kiểm soát của elite miền nam đối với lực lượng lao động da đen, được chấp thuận. Vì thế, miền Nam đã bước vào thế kỷ thứ hai mươi như một xã hội chủ yếu là nông thôn với mức giáo dục thấp và công nghệ lạc hậu, vẫn áp dụng lao động chân tay và sức kéo của những con la hầu như không được trợ giúp bởi các công cụ cơ giới. Mặc dù tỷ lệ dân số đô thị đã tăng lên, nó đã ít hơn ở miền Bắc rất nhiều. Thí dụ, trong năm 1900, 13,5 phần trăm dân số miền Nam sống ở đô thị, so với 60 phần trăm ở Đông Bắc.
Xét về mọi mặt, các thể chế khai thác ở miền nam Hoa Kỳ, dựa trên quyền lực của elite sở hữu đất, nền nông nghiệp đồn điền, và lao động lương thấp, giáo dục thấp, đã tồn tại dai dẳng lâu vào thế kỷ thứ hai mươi. Các thể chế này đã bắt đầu sụp đổ chỉ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai và rồi thật sự sau phong trào các quyền dân sự đã phá hủy cơ sở chính trị của hệ thống. Và đã chỉ sau khi các thể chế này chết đi trong các năm 1950 và 1960 thì miền Nam mới bắt đầu quá trình hội tụ nhanh của nó với miền Bắc.
Miền Nam Hoa Kỳ cho thấy một mặt khác nữa, có khả năng phục hồi nhanh của vòng luẩn quẩn: như ở Guatemala, elite đồn điền miền nam đã vẫn nắm quyền và đã sắp đặt các thể chế kinh tế và chính trị nhằm bảo đảm tính liên tục của quyền lực của nó. Nhưng khác với Guatemala, nó đã đối mặt với những thách thức đáng kể sau thất bại trong Nội Chiến, mà đã xóa bỏ chế độ nô lệ và đã đảo ngược sự loại trừ hoàn toàn, hợp hiến của những người da đen ra khỏi sự tham gia chính trị. Nhưng có nhiều hơn một cách để lột da một con mèo: chừng nào elite chủ đồn điền còn kiểm soát các khu rộng mênh mông của nó và vẫn được tổ chức, nó đã có thể sắp đặt một tập mới của các thể chế, các thể chế Jim Crow thay cho thể chế nô lệ, để đạt được cùng mục đích. Vòng luẩn quẩn đã hóa ra là mạnh hơn nhiều người, kể cả Abraham Lincoln, đã nghĩ. Vòng luẩn quẩn dựa trên các thể chế chính trị khai thác tạo ra các thể chế kinh tế khai thác, mà đến lượt lại ủng hộ các thể chế chính trị khai thác, bởi vì sự giàu có và quyền lực kinh tế mua quyền lực chính trị. Khi bốn mươi mẫu đất và một con la đã không còn trên bàn nghị sự, quyền lực kinh tế của elite chủ đồn điền miền nam vẫn không bị mờ đi. Và, không ngạc nhiên và đáng tiếc, các hệ lụy đối với dân cư da đen của miền Nam, và sự phát triển kinh tế của miền Nam, cũng như nhau.
 QUY LUẬT SẮT CỦA CHÍNH THỂ ĐẦU SỎ
Triều đại Solomonic ở Ethiopia đã kéo dài cho đến khi nó bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính quân sự trong năm 1974. Cuộc đảo chính đã được lãnh đạo bởi Derg, một nhóm Marxist sĩ quan quân đội. Chế độ mà Derg hất khỏi quyền lực đã trông giống như được làm đông lạnh trong thế kỷ trước nào đó, một sự sai niên đại lịch sử. Hoàng đế Haile Selassie bắt đầu ngày của mình bằng đi đến sân trong tại Cung điện Lớn, mà đã được Hoàng đế Menelik II xây dựng trong cuối thế kỷ thứ mười chín. Bên ngoài cung điện là một đám đông các chức sắc chờ đợi ngài đến, cúi chào và thử một cách tuyệt vọng để lấy sự chú ý của ngài. Hoàng đế tổ chức buổi chầu thiết triều ở Phòng Tiếp kiến, ngồi trên ngai vàng. (Selassie đã là một người nhỏ con; cho nên để cho chân ông không lủng lẳng trong không khí, đã là công việc của một viên quan đặc biệt mang gối đi cùng ông bất cứ nơi đâu ông đi để bảo đảm rằng có một chiếc gối thích hợp đặt dưới chân ông. Viên quan này giữ một kho năm mươi hai chiếc gối để đối phó với mọi tình huống.) Selassie đã điều khiển một tập cực đoan của các thể chế khai thác và đã vận hành đất nước cứ như là tài sản riêng của ông, phân phát ân huệ và ban sự đỡ đầu và trừng trị một cách tàn nhẫn sự thiếu trung thành. Đã không có sự phát triển kinh tế nào để nói về ở Ethiopia dưới triều đại Solomonic.
Ban đầu Derg đã được hình thành từ 108 đại diện của các đơn vị quân sự khác nhau từ khắp đất nước. Đại diện của Sư đoàn thứ Ba ở tỉnh Harar đã là thiếu tá Mengistu Haile Mariam. Mặc dù trong tuyên bố ban đầu của họ ngày 4 tháng Sáu, 1974, các sĩ quan Derg đã tuyên bố lòng trung thành của họ với hoàng đế, họ đã mau chóng bắt các thành viên của chính phủ, kiểm thử xem nó tạo ra bao nhiêu sự chống đối. Khi họ trở nên tự tin hơn rằng sự ủng hộ cho chế độ Selassie là trống rỗng, họ tiến đến bản thân hoàng đế, bắt giữ ông ngày 12 tháng Chín. Rồi các cuộc hành quyết bắt đầu. Nhiều chính trị gia cốt lõi của chế độ cũ đã bị giết nhanh chóng. Vào tháng Mười Hai, Derg đã tuyên bố rằng Ethiopia là một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Selassie chết, có lẽ đã bị giết, ngày 27 tháng Tám, 1975. Trong năm 1975 Derg đã bắt đầu quốc hữu hóa tài sản, gồm tất cả đất đô thị và nông thôn và hầu hết các loại tài sản tư nhân. Ứng xử ngày càng độc đoán của chế độ đã châm ngòi cho sự phản đối khắp đất nước. Các phần lớn của Ethiopia đã được ráp lại cùng nhau trong thời gian mở rộng thuộc địa Âu châu trong cuối thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi bởi các chính sách của Hoàng đế Menelik II, người chiến thắng trận Adowa, mà chúng ta đã bắt gặp trước đây (trang 237). Các phần này đã gồm Eritrea và Tigray ở miền bắc và Ogaden ở miền đông. Các phong trào độc lập đáp lại chế độ tàn nhẫn của Derg đã nổi lên ở Eritrea và Tigray, trong khi quân đội Somali đã xâm lấn Ogaden nói tiếng Somali. Bản thân Derg đã bắt đầu tan rã và tách thành các phe phái. Thiếu tá Mengistu hóa ra đã tàn nhẫn và thông minh nhất giữa họ. Vào giữa-1977 ông ta đã loại bỏ các đối thủ chính của mình và trên thực tế đã chịu trách nhiệm về chế độ, mà đã được cứu khỏi sự sụp đổ chỉ bằng sự tuôn ồ ạt vũ khí và binh lính từ Liên Xô và Cuba vào cuối tháng Mười Một năm đó.
Trong năm 1978 chế độ đã tổ chức một cuộc kỷ niệm quốc gia đánh dấu kỷ niệm lần thứ tư sự lật đổ Haile Selassie. Vào thời gian này Mengistu đã là nhà lãnh đạo không bị thách thức của Derg. Để làm nơi ở, nơi mà từ đó ông cai trị Ethiopia, ông đã chọn Cung điện Lớn của Selassie, bị bỏ trống từ khi nền quân chủ bị xóa bỏ. Tại buổi lễ kỷ niệm, ông đã ngồi trên một chiếc ghế bành mạ vàng để theo dõi cuộc duyệt binh, hệt như các hoàng đế thời xưa. Những hoạt động chính thức bây giờ lại được tiến hành ở Cung điện Lớn, với Mengistu ngồi trên ngai vàng cũ của Haile Selassie. Mengistu đã bắt đầu so sánh mình với Hoàng đế Tewodros, người đã thành lập lại Triều đại Solomonic trong giữa thế kỷ thứ mười chín sau một thời kỳ suy sụp.
Một trong các bộ trưởng của ông, Dawit Wolde Giorgis, đã nhớ lại trong hồi ký của mình:
Vào đầu cuộc Cách mạng tất cả chúng tôi đã hoàn toàn bác bỏ bất cứ thứ gì liên quan đến quá khứ. Chúng tôi sẽ không lái xe, hay mặc com lê nữa; ca vát đã được coi là tội ác. Bất cứ thứ gì mà làm cho bạn trông giống người khá giả hay tư sản, bất cứ thứ gì mà có vẻ một chút sung túc hay tinh vi, đã bị khinh bỉ như phần của trật tự cũ. Rồi, khoảng 1978, tất cả bắt đầu thay đổi. Dần dần sự quá thiên về vật chất được chấp nhận, rồi được đòi hỏi. Người thiết kế quần áo từ các thợ may Âu châu giỏi nhất thiết kế đồng phục cho tất cả các quan chức cấp cao của chính phủ và các thành viên của Hội đồng Quân sự. Chúng tôi đã có mọi thứ tốt nhất: nhà tốt nhất, xe tốt nhất, whiskey, champagne, thức ăn ngon nhất. Đã là một sự đảo ngược hoàn toàn của các lý tưởng của Cách mạng.
Giorgis cũng đã nghi lại một cách sống động Mengistu đã thay đổi ra sao một khi ông đã trở thành nhà cai trị duy nhất:
Mengistu thật lộ ra: thích báo thù, tàn ác và độc đoán … Nhiều người chúng tôi những người đã quen nói với ông ta với tay đút trong túi quần, cứ như ông ta là một trong những người chúng tôi, đã thấy mình đứng nghiêm cứng đờ, kính cẩn trước sự hiện diện của ông. Trong xưng hô với ông chúng tôi đã luôn sử dụng dạng thân mật của “anh,” ante; bây giờ chúng tôi thấy mình chuyển sang dạng “anh” hình thức hơn, ersiwo. Ông ta đã chuyển vào một văn phòng lớn hơn, sang trọng hơn trong Cung điện của Menelik … Ông ta bắt đầu dùng các xe của Hoàng đế … Chúng tôi được cho rằng có một cuộc cách mạng bình đẳng; bây giờ ông ta đã trở thành Hoàng đế mới.
Hình mẫu của vòng luẩn quẩn được mô tả bởi sự chuyển tiếp giữa Haile Selassie và Mengistu, hay giữa các thống đốc thuộc địa Anh của Sierra Leone và Siaka Stevens, là hết sức cực đoan và ở mức độ nào đó hết sức lạ, nên xứng đáng một cái tên đặc biệt. Như chúng ta đã nhắc đến rồi ở chương 4, nhà xã hội học Đức Robert Michels đã gọi nó là quy luật sắt của chính thể đầu sỏ (iron law of oligarchy). Logic bên trong của các chính thể đầu sỏ, và thực ra của tất cả các tổ chức có thứ bậc, là, Michels lập luận, chúng sẽ tái tạo chính mình không chỉ khi cùng nhóm nắm quyền lực, mà ngay cả khi khi một nhóm hoàn toàn khác nắm quyền kiểm soát. Cái Michels đã không lường trước có lẽ đã là một tiếng vọng của nhận xét của Karl Marx rằng lịch sử lặp lại chính nó – lần đầu tiên như tấn bi kịch, lần thứ hai như trò hề.
Không chỉ là, nhiều trong số lãnh tụ của châu Phi sau độc lập đã chuyển vào cùng dinh thự, sử dụng cùng các mạng lưới đỡ đầu, và đã áp dụng cùng những cách để thao túng các thị trường và tước đoạt các nguồn lực như các chế độ thuộc địa đã làm và các hoàng đế mà họ đã thay thế; mà họ còn đã làm cho tình hình tồi tệ hơn. Quả thực đã là một trò hề rằng Stevens chống thuộc địa một cách kiên định lại đã liên quan tới việc kiểm soát cùng những người, những người Mende, mà những người Anh đã tìm cách kiểm soát; rằng ông ta dựa vào cùng các thủ lĩnh mà những người Anh đã trao quyền và rồi đã dùng để kiểm soát nội địa; rằng ông ta vận hành nền kinh tế theo cùng cách, tước đoạt các nông dân với cùng các hội đồng marketing và kiểm soát kim cương dưới một độc quyền tương tự. Đã quả thực là một trò hề, một trò hề quả thật rất buồn, rằng Laurent Kabila, người đã huy động một quân đội chống lại chế độ độc tài Mobutu với lời hứa giải phóng nhân dân và chấm dứt sự tham nhũng và sự đàn áp gây nghẹt thở và gây bần cùng hóa ở Zaire của Mobutu, sau đó lại dựng lên một chế độ tham nhũng hệt thế và có lẽ thậm chí còn tai hại hơn. Chắc chắn đã là trò hề rằng ông ta đã thử bắt đầu một tệ sùng bái cá nhân Mobutu được giúp đỡ và tiếp tay bởi Dominique Sakombi Inongo, bộ trưởng thông tin của Mobutu trước đó, và rằng chế độ Mobutu bản thân nó đã rập theo hình mẫu bóc lột nhân dân mà đã bắt đầu hơn một thế kỷ trước với Nhà nước Tự do Congo của Vua Leopold. Đã quả thực là một trò hề rằng sĩ quan Marxist Mengistu bắt đầu sống trong một lâu đài, coi bản thân mình như một hoàng đế, và làm giàu cho bản thân mình và đoàn tùy tùng của ông hệt như Haile Selassie và các hoàng đế khác trước ông đã làm.
Tất cả đã là một trò hề, nhưng cũng đã bi thảm hơn thảm kịch ban đầu, và không chỉ vì những hy vọng đã bị tan vỡ. Stevens và Kabila, giống nhiều nhà cai trị khác ở châu Phi, đã bắt đầu giết các đối thủ của họ và rồi các công dân vô tội. Mengistu và các chính sách của Derg đã gây ra nạn đói tái diễn định kỳ cho các vùng đất màu mỡ của Ethiopia. Lịch sử đã lặp lại chính mình, nhưng trong một dạng rất bị bóp méo. Đã có một nạn đói ở tỉnh Wollo trong năm 1973 mà đối với nó Haile Selassie đã thờ ơ một cách rõ ràng mà cuối cùng sự thờ ơ ấy đã đóng góp rất nhiều vào việc củng cố sự chống đối chế độ của ông ta. Selassie chí ít đã chỉ thờ ơ. Mengistu thay vào đó đã coi nạn đói như một công cụ chính trị để làm xói mòn sức mạnh của các đối thủ của ông. Lịch sử đã không chỉ có tính khôi hài và bi kịch, mà cũng tàn nhẫn với các công dân của Ethiopia và phần lớn của châu Phi hạ-Sahara.
Bản chất của quy luật sắt của chính thể đầu sỏ, mặt cá biệt này của vòng luẩn quẩn, là, các lãnh tụ mới lật đổ các chế độ cũ với những lời hứa thay đổi triệt để chỉ mang lại vẫn thế. Ở mức nào đó, quy luật sắt của chính thể đầu sỏ là khó hơn để hiểu so với các dạng khác của vòng luẩn quẩn. Có một logic rõ ràng đối với sự dai dẳng của các thể chế khai thác ở miền Nam Hoa Kỳ và ở Guatemala. Cùng các nhóm đã tiếp tục chi phối nền kinh tế và chính trị trong hàng thế kỷ. Ngay cả khi bị thách thức, như các chủ đồn điền miền nam Hoa Kỳ đã bị sau Nội Chiến, quyền lực của họ đã vẫn nguyên vẹn và họ đã có khả năng giữ và tái tạo một tập tương tự của các thể chế khai thác mà từ đó họ lại có thể hưởng lợi. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể hiểu được những người lên nắm quyền nhân danh sự thay đổi triệt để lại tái tạo ra cùng hệ thống? Câu trả lời cho câu hỏi này tiết lộ, lại một lần nữa, rằng vòng luẩn quẩn là mạnh hơn nó thoạt đầu có vẻ.
Không phải tất cả những thay đổi triệt để buộc phải chịu thất bại. Cách mạng Vinh quang đã là một thay đổi triệt để, và nó đã dẫn đến cái có lẽ hóa ra là cách mạng chính trị quan trọng nhất của hai thiên niên kỷ qua. Cách mạng Pháp đã thậm chí triệt để hơn, với sự hỗn loạn và bạo lực quá đáng và sự nổi lên của Napoleon Bonaparte, nhưng nó đã không tái tạo ra ancien régime.
Ba nhân tố đã hết sức tạo thuận lợi cho sự nổi lên của các thể chế chính trị bao gồm hơn tiếp sau Cách mạng Vinh quang và Cách mạng Pháp. Thứ nhất đã là các nhà buôn và các nhà kinh doanh mới muốn tháo sức mạnh của sự phá hủy sáng tạo mà từ đó bản thân họ được hưởng lợi; những người mới này đã ở giữa các thành viên chủ chốt của các liên minh cách mạng và đã không muốn thấy sự phát triển của một tập khác nữa của các thể chế khai thác mà sẽ lại rình bắt họ làm mồi.
Thứ hai đã là bản chất của sự liên minh rộng rãi mà đã hình thành trong cả hai trường hợp. Thí dụ, Cách mạng Vinh quang đã không phải là một cuộc đảo chính của một nhóm hẹp hay một nhóm lợi ích hẹp cụ thể, mà là một phong trào được ủng hộ bởi các nhà buôn, các nhà công nghệ, giới quý tộc nhỏ (gentry), và các nhóm chính trị khác. Phần lớn đã cũng đúng thế với Cách mạng Pháp.
Nhân tố thứ ba liên quan đến lịch sử của các thể chế chính trị Anh và Pháp. Chúng đã tạo ra một bối cảnh mà trong đó các chế độ mới, và bao gồm hơn đã có thể phát triển. Trong cả hai nước đã có một truyền thống về nghị viện và chia sẻ quyền lực quay lại đến Magna Carta ở nước Anh và đến Hội đồng Nhân sĩ ở Pháp. Hơn nữa, cả hai cuộc cách mạng đã xảy ra giữa một quá trình mà đã làm yếu đi rồi sự nắm quyền lực của các chế độ chuyên chế, hay mong muốn là chuyên chế. Chẳng trong trường hợp nào các thể chế chính trị này lại làm dễ cho một nhóm mới của các nhà cai trị hay một nhóm hẹp để nắm quyền kiểm soát nhà nước và chiếm đoạt sự giàu có kinh tế và xây dựng quyền lực chính trị không bị kiềm chế và lâu bền. Trong hậu quả của Cách mạng Pháp, một nhóm hẹp dưới sự lãnh đạo của Robespierre và Saint-Just đã nắm được kiểm soát, với các hệ quả tai ác, nhưng đấy đã là tạm thời và đã không làm trệch đường tiến đến các thể chế bao gồm hơn. Tất cả điều này tương phản với tình hình của các xã hội với lịch sử dài của các thể chế kinh tế và chính trị khai thác cực đoan, và không có những sự kiềm chế lên quyền lực của các nhà cai trị. Trong các xã hội này, không có các nhà buôn hay các nhà kinh doanh mới và mạnh, ủng hộ và tài trợ cho sự kháng cự chống lại chế độ hiện tồn một phần để bảo đảm các thể chế kinh tế bao gồm hơn; không có các liên minh rộng nào đưa ra các ràng buộc chống lại quyền lực của mỗi thành viên của họ; không có các thể chế chính trị nào ngăn chặn các nhà cai trị mới có ý định chiếm đoạt và lợi dụng quyền lực.
Vì thế, ở Sierra Leone, Ethiopia, và Congo, vòng luẩn quẩn là khó hơn rất nhiều để cưỡng lại, và các bước theo hướng các thể chế bao gồm là rất ít có khả năng để khởi hành. Đã cũng không có các thể chế truyền thống hay lịch sử nào mà đã có thể kiểm soát quyền lực của những người muốn nắm quyền kiểm soát nhà nước. Các thể chế như vậy đã tồn tại ở một vài phần của châu Phi, và một số, như ở Botswana, thậm chí đã sống sót qua thời kỳ thuộc địa. Nhưng chúng đã ít nổi bật hơn nhiều suốt lịch sử của Sierra Leone, và trong chừng mực chúng tồn tại, chúng đã bị sự cai trị gián tiếp làm sa đọa. Cũng đã đúng thế trong các thuộc địa Anh khác ở châu Phi, như Kenya và Nigeria. Chúng đã chẳng bao giờ tồn tại ở vương quốc Ethiopia chuyên chế. Ở Congo, các thể chế bản địa đã bị hoạn bởi sự cai trị Bỉ và các chính sách độc đoán của Mobutu. Trong tất cả các xã hội này, cũng đã không có các nhà buôn, các nhà kinh doanh, hay các doanh nhân khởi nghiệp mới ủng hộ các chế độ mới và đòi các quyền tài sản an toàn và một sự chấm dứt các thể chế khai thác trước đây. Thực ra, các thể chế kinh tế khai thác của thời kỳ thuộc địa có nghĩa rằng đã không có mấy tinh thần kinh doanh khởi nghiệp hay doanh nghiệp được để lại chút nào.
Cộng đồng quốc tế đã nghĩ rằng sự độc lập Phi châu hậu thuộc địa sẽ dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế thông qua quá trình lập kế hoạch nhà nước và nuôi dưỡng khu vực tư nhân. Nhưng đã không có khu vực tư nhân ở đó – trừ ở vùng nông thôn, mà đã không có sự đại diện nào trong các chính phủ mới và như thế sẽ là con mồi đầu tiên của chúng. Có lẽ quan trọng nhất, trong hầu hết các trường hợp này, đã có lợi ích khổng lồ từ sự nắm quyền. Những lợi ích này cả đã thu hút những người vô lương tâm nhất, như Stevens, những người đã muốn độc quyền hóa quyền lực này, và đã làm lộ ra cái tồi nhất của họ một khi họ đã nắm quyền lực. Đã chẳng có gì để phá vỡ vòng luẩn quẩn.
 PHẢN HỒI ÂM VÀ CÁC VÒNG LUẨN QUẨN
Các quốc gia giàu là giàu phần lớn bởi vì họ đã tìm được cách để phát triển các thể chế bao gồm tại điểm nào đó trong ba trăm năm qua. Các thể chế này đã tồn tại bền bỉ thông qua một quá trình của các vòng thiện. Cho dù bao gồm chỉ theo một ý nghĩa hạn chế để bắt đầu với, và đôi khi mỏng manh, chúng đã gây ra động học mà sẽ tạo ra một quá trình phản hồi dương, từ từ làm tăng tính bao gồm của chúng. Nước Anh đã không trở thành một nền dân chủ sau Cách mạng Vinh quang năm 1688. Còn xa mới thế. Chỉ có một phần nhỏ của dân cư đã có sự đại diện chính thức, nhưng cốt yếu, nước Anh đã đa nguyên. Một khi chủ nghĩa đa nguyên được coi là linh thiêng, đã có một xu hướng cho các thể chế trở nên bao gồm hơn theo thời gian, cho dù đấy là một quá trình không vững và bất trắc.
Về mặt này, nước Anh đã là điển hình của các vòng thiện: các thể chế chính trị bao gồm tạo ra các ràng buộc chống lại việc lợi dụng và chiếm đoạt quyền lực. Chúng cũng thường tạo ra các thể chế kinh tế bao gồm, mà đến lượt lại làm cho sự tiếp tục của các thể chế chính trị bao gồm có khả năng hơn.
Dưới các thể chế kinh tế bao gồm, của cải không tập trung vào tay một nhóm nhỏ mà sau đó có thể sử dụng sức mạnh kinh tế của nó để làm tăng quyền lực chính trị của nó một cách không cân xứng. Hơn nữa, dưới các thể chế kinh tế bao gồm có lợi ích hạn chế hơn nhiều từ việc nắm giữ quyền lực chính trị, như thế các khuyến khích yếu hơn cho mỗi nhóm và mỗi cá nhân có tham vọng, mới phất để thử nắm quyền kiểm soát nhà nước. Một sự hợp lưu của các nhân tố tại một bước ngoặt, kể cả sự tác động lẫn nhau giữa các thể chế hiện tồn và các cơ hội và thách thức gây ra bởi bước ngoặt, nói chung chịu trách nhiệm về lúc bắt đầu của các thể chế bao gồm, như trường hợp nước Anh chứng minh. Nhưng một khi các thể chế bao gồm này ở vị trí của chúng, chúng ta không cần đến cùng sự hợp lưu của các nhân tố để cho chúng sống sót. Các vòng thiện, mặc dù vẫn phải chịu sự tùy thuộc ngẫu nhiên đáng kể, làm cho tính liên tục của các thể chế là có thể và thậm chí thường thả ra các động lực đưa xã hội hướng tới tính bao gồm lớn hơn.
Như các vòng thiện làm cho các thể chế bao gồm bền bỉ, các vòng luẩn quẩn tạo ra các lực hùng mạnh hướng tới sự tồn tại dai dẳng của các thể chế khai thác. Lịch sử không phải là định mệnh, và các vòng luẩn quẩn không phải là không thể bị phá vỡ, như chúng ta sẽ thấy thêm ở chương 14. Nhưng chúng có khả năng phục hồi nhanh. Chúng tạo ra một quá trình mạnh mẽ của phản hồi âm, với các thể chế chính trị khai thác rèn đúc các thể chế kinh tế khai thác, mà đến lượt lại tạo ra cơ sở cho sự dai dẳng của các thể chế chính trị khai thác. Chúng ta đã thấy điều này rõ nhất trong trường hợp của Guatemala, nơi cùng elite đã nắm giữ quyền lực, đầu tiên dưới sự cai trị thuộc địa, rồi ở Guatemala độc lập, trong hơn bốn thế kỷ; các thể chế khai thác làm giàu cho elite, và của cải của họ tạo thành cơ sở cho sự tiếp tục của sự thống trị của họ.
Cùng quá trình của vòng luẩn quẩn cũng hiển nhiên trong sự bền bỉ của nền kinh tế đồn điền ở miền Nam Hoa Kỳ, trừ rằng nó cũng giới thiệu khả năng phục hồi nhanh rất lớn của các vòng luẩn quẩn khi đối mặt với các thách thức. Các chủ đồn điền miền nam Hoa Kỳ đã mất sự kiểm soát chính thức của chúng đối với các thể chế kinh tế và chính trị sau sự thất bại của họ trong Nội Chiến. Chế độ nô lệ, mà đã là cơ sở của nền kinh tế đồn điền, đã bị xóa bỏ, và những người da đen đã được trao các quyền chính trị và kinh tế bình đẳng. Thế nhưng Nội Chiến đã không phá hủy quyền lực chính trị của elite đồn điền hay cơ sở kinh tế của nó, và chúng đã có khả năng sắp đặt lại hệ thống, dưới một chiêu bài khác nhưng vẫn dưới sự kiểm soát chính trị địa phương riêng của họ, và để đạt được cùng mục tiêu: sự dồi dào của lao động giá rẻ cho các đồn điền.
Dạng này của vòng luẩn quẩn, nơi các thể chế khai thác vẫn tồn tại dai dẳng bởi vì elite kiểm soát chúng và hưởng lợi từ chúng vẫn bền bỉ, không phải là dạng duy nhất. Một dạng thoạt đầu khó hiểu hơn, nhưng không kém thực tế và không kém độc hại của phản hồi âm đã định hình sự phát triển chính trị và kinh tế của nhiều quốc gia, và được minh họa bằng thí dụ bởi những kinh nghiệm của phần lớn châu Phi hạ-Sahara, đặc biệt là Sierra Leone và Ethiopia. Trong một dạng mà nhà xã hội học Robert Michels có thể nhận ra như quy luật sắt của chính thể đầu sỏ, sự lật đổ một chế độ điều khiển các thể chế khai thác báo hiệu sự đến của một nhóm mới của các ông chủ để khai thác cùng tập của các thể chế khai thác độc hại ấy.
Logic của kiểu này của vòng luẩn quẩn, về sau nhìn lại, cũng đơn giản để hiểu: các thể chế chính trị khai thác tạo ra ít ràng buộc lên việc sử dụng quyền lực, cho nên về cơ bản không có các thể chế để kiềm chế việc sử dụng và lạm dụng quyền lực bởi những người lật đổ các nhà độc tài trước đây và chiếm lấy sự kiểm soát nhà nước; và các thể chế kinh tế khai thác ngụ ý rằng có thể kiếm các khoản lợi nhuận và của cải khổng lồ chỉ bằng sự kiểm soát quyền lực, chiếm đoạt tài sản của những người khác, và dựng lên các độc quyền.
Tất nhiên, quy luật sắt của chính thể đầu sỏ không phải là một quy luật thật, theo nghĩa các quy luật của vật lý học. Nó không vẽ ra một con đường không thể tránh khỏi, như Cách mạng Vinh quang ở nước Anh hay Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản minh họa.
Một nhân tố chủ chốt trong các tình tiết này, mà đã thấy một sự đổi hướng chủ yếu theo hướng các thể chế bao gồm, đã là sự trao quyền cho một liên minh rộng mà đã có thể đứng lên chống lại chính thể chuyên chế và có thể thay thế các thể chế chuyên chế bằng các thể chế bao gồm, đa nguyên hơn. Một cuộc cách mạng bởi một liên minh rộng làm cho sự nổi lên của các thể chế chính trị đa nguyên có khả năng hơn nhiều. Ỏ Sierra Leone và Ethiopia, quy luật sắt của chính thể đầu sỏ đã làm cho có nhiều khả năng hơn không chỉ bởi vì các thể chế hiện tồn là hết sức khai thác mà cũng bởi vì cả phong trào độc lập ở Sierra Leone lẫn cuộc đảo chính Derg ở Ethiopia đã không là các cuộc cách mạng được lãnh đạo bởi những liên minh rộng như vậy, mà đúng hơn bởi các cá nhân và các nhóm tìm kiếm quyền lực sao cho họ có thể tiến hành khai thác.
Còn có một khía cạnh khác nữa, thậm chí khía cạnh còn tàn phá hơn của vòng luẩn quẩn, được lường trước bởi thảo luận của chúng ta về các thành-quốc Maya ở chương 5. Khi các thể chế khai thác tạo ra những sự bất bình đẳng khổng lồ trong xã hội và sự giàu có hết sức và quyền lực không bị kiềm chế cho những người nắm quyền kiểm soát, thì sẽ có nhiều người muốn chiến đấu để giành sự kiểm soát nhà nước và các thể chế. Các thể chế khai thác khi đó không chỉ mở đường cho chế độ tiếp theo, mà sẽ thậm chí khai thác hơn, nhưng chúng cũng gây ra sự đấu đá nội bộ liên miên và các cuộc nội chiến. Các cuộc nội chiến này rồi gây ra nhiều sự đau khổ con người và cũng phá hủy ngay cả một chút sự tập trung hóa nhà nước mà các xã hội này đã đạt được. Việc này cũng thường khởi động một quá trình sa sút thành tình trạng không có luật pháp, sự thất bại nhà nước, và hỗn loạn chính trị, nghiền nát mọi hy vọng về sự thịnh vượng kinh tế, như chương tiếp theo sẽ minh họa.

13.VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI NGÀY NAY

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét