thư mục

Thứ Hai, 9 tháng 7, 2012

Tại sao Hoa Kỳ cần Thỏa ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương?


FOREIGN AFFAIRS
Số Tháng Bảy/ Tháng Tám, 2012
Thương mại gia tăng ở châu Á

Bernard K. Gordon

BERNARD K. GORDON là Giáo sư Danh dự về Khoa học Chính trị tại Đại học NewHampshire. Ông là tác giả của cuốn sách Những Quyết định Điên rồ về Thương mạicủa Hoa Kỳ và một cuốn sách sắp xuất bản về Thỏa ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương.

 Khi vòng đàm phán thương mại toàn cầu Doha trải qua gần 12 năm mà không có dấu hiệukết thúc thì hiển nhiên các cuộc đàm phán đều đã  thất bại. Hoa Kỳ quá thất vọng với tình trạng bế tắc của  Doha và nóng lòng muốn mở rộng các liên minh thương mại và an ninhnên đã ký kết một loạt các thỏa ước thương mại tự do song phương (FTA), cao điểm nhất hồi cuối năm ngoái đã ký với Colombia, Panama và Hàn Quốc. Nói chung, các thỏa thuận này đều thuận lợi cho Hoa Kỳ. Chẳng hạn, thỏa thuận với Hàn Quốc được kỳ vọng sẽ giatăng thương mại giữa hai nước lên hàng tỷ đô la và tạo ra hàng chục ngàn công ăn việc làmcho mỗi quốc gia.
Mặc cho những kết quả này, cách tiếp cận song phương tỏ ra không có nhiều hứa hẹn. Các thỏa thuận năm ngoái đã kết thúc một giai đoạn bế tắc kéo dài năm năm giữa một bên làhầu hết các đảng viên Cộng hòa tại Thượng viện Hoa Kỳ và những người ủng hộ thương mại thuộc cộng đồng kinh doanh và bên kia là các nhà Dân chủ, hầu hết các nghiệp  đoàn,cùng các nhà sản xuất xe hơi Hoa Kỳ. Những người này đã chống lại đặc biệt dữ dội thỏa thuận với Hàn Quốc bởi những hạn chế kéo dài đối với doanh số bán xe ô tô của Hoa Kỳ tại Hàn Quốc.
Sau một quá trình vận động hành lang, tranh cãi và thỏa hiệp đầy khó khăn, chính quyền Obama cuối cùng vẫn còn chút hào hứng để cố gắng đạt được một thỏa thuận songphương khác.
Để thúc đẩy chương trình nghị sự thương mại đạt được thêm tiến bộ thay vì đi theo lối mòn, Nhà Trắng đã chấp nhận một biện pháp trung dung giữa Vòng đàm phán Doha toàn cầu và các FTA song phương: xây dựng quá trình thỏa thuận đa phương dựa trên Thỏa ướcĐối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Với quá trình đàm phán hiện nay với Úc, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ, và Việt Nam, TPP sẽ trở thành một trong những thỏa thuận thương mại mở rộng lớn nhất thế giới. Và nếu như Canada, Mexico và đặc biệt là Nhật Bản, những nước đã bày tỏ sự quan tâm tham gia các cuộc đàm phánvào cuối tháng Mười Một năm ngoái cũng ký vào thỏa thuận, TPP sẽ đóng góp thêm hàng tỷ Đô la Mỹ cho nền kinh tế Mỹ và củng cố cam kết chính trị, tài chính, và quân sự của Washington đối với Thái Bình Dương trong nhiều thập kỷ tới. Chính quyền Obama tin rằngvới lợi ích tiềm năng như vậy TPP cũng là một cơ hội tốt hơn để vượt qua những trở ngạitrong nước so với một thỏa thuận Doha hoặc các thỏa thuận song phương mới.
Nhưng TPP phải đối mặt với những trở ngại. Những người chỉ trích từ các nước tham gia vào các cuộc đàm phán lo ngại Hoa Kỳ đang cố gắng vận dụng các thỏa thuận thương mạiđể áp đặt các quy định mở rộng về bản quyền và bằng sáng chế lên các đối tác thương mại của mình nhằm bảo vệ các doanh nghiệp và các nhà đổi mới công nghệ Hoa Kỳ. Việc giữ bí mật tương đối xung quanh các cuộc đàm phán TPP đã chỉ làm sâu sắc thêm những lo ngại này. Các nhà đàm phán đã cho phép các bên liên quan từ ngành công nghiệp đến công chúng trình bày ý kiến tại các kỳ họp TPP mở rộng. Tuy nhiên, người ta đã từ chối việc công bố các văn bản của các cuộc đàm phán. Nếu chính quyền Obama không đáp ứng những đòi hỏi về quyền sở hữu trí tuệ và minh bạch hơn các cuộc đàm phán, nhiều khả năng TPP sẽsụp đổ. Sự thất bại này sẽ là một thất bại lớn đối với chính quyền Obama và nó phá hoại mục tiêu của chính quyền hiện nay là đảm bảo sự hiện diện lâu dài cho Hoa Kỳ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
HỨA HẸN THÁI BÌNH DƯƠNG
TPP được cho là tốt hơn các thể loại thỏa thuận thương mại truyền thống. Trước hết, trong thập kỷ tới, TPP sẽ dần dần loại bỏ tất cả các hàng rào thuế quan thương mại giữa các nước thành viên. Tiếp theo sau mô hình FTA giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc, TPP cũng sẽ ảnh hưởng đến hầu hết các quan hệ kinh tế giữa các nước thành viên, bao gồm các chính sách đầu tư và thu mua của chính phủ, tiêu chuẩn về môi trường và lao động, nông nghiệp, sở hữu trí tuệ, và các lĩnh vực mới như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa (các doanh nghiệp có lượng lao động từ 50 đến 500 người). Hoa Kỳ và các đối tác hy vọng rằng TPP sẽ trở thành nội dung then chốt của thương mại tự do trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, TPP có thể không đạt được kỳ vọng nếu không có Nhật Bản. GDP của đất nước này nhiều hơn gấp đôi so với tất cả các quốc gia TPP khác cộng lại, không tính Hoa Kỳ. TPP bao gồm cả Nhật Bản có nghĩa chiếm 40% GDP toàn cầu và thêm $ 60 tỷ USD cho thị trường xuất khẩu của Mỹ. Đó là lý do tại sao chính quyền Obama và giới xuất khẩu Hoa Kỳ tuyên bố ủng hộ sự tham gia của Nhật Bản vào TPP khi Tokyo thể hiện sự quan tâm của họ đến TPP. Vào tháng Mười Hai năm ngoái, hơn 60 tổ chức thực phẩm và nông nghiệp Hoa Kỳ đã gửi một tuyên bố chung tới Ron Kirk, đại diện thương mại Hoa Kỳ, và Tom Vilsack, Bộ trưởng nông nghiệp Hoa Kỳ, ủng hộ việc "dọn đường cho sự tham gia đầy đủ của Nhật Bản." Một tuần sau đó, Hội nghị Bàn tròn Kinh doanh (một hiệp hội các Giám đốc điều hành), và Liên minh Doanh nghiệp Hoa Kỳ cho TPP (gồm  các công ty ủng hộ các thỏa thuận thương mại tự do), đã gửi một bức thư tương tự tới Đại diện thương mại Hoa Kỳ. Trong tháng Ba, Wendy Cutler, trợ lý đại diện thương mại Hoa Kỳ, nói với cử tọa tại Tokyo: "viễn cảnh Nhật Bản gia nhập TPP. . . là quan trọng; là bước ngoặt lịch sử. Và nói một cách thẳng thắn điều đó rất hứng khởi."
Chính quyền Obama tính đến khả năng đó, và đã biến TPP thành nền tảng trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ, cũng như hiện đang làm tất cả những gì có thể để hình thành thỏa thuận có lợi cho Hoa Kỳ. Ví dụ, chính sách thương mại nhấn mạnh việc khuyến khích và bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp này thường có ít kinh nghiệm trong việc đối phó với hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu, nhưng Washington hy vọng nâng cao vai trò của chúng trong TPP bởi vì các doanh nghiệp loại này tạo ra phần lớn việc làm cho Hoa Kỳ. Bằng cách giúp đỡ các doanh nghiệp này, chính quyền Hoa Kỳ có thể giành được sự ủng hộ trong nước đối với vấn đề thương mại. Người Hoa Kỳ từ lâu đã không còn quan tâm đến thương mại bởi họ tin nó chủ yếu mang lại lợi ích cho người nước ngoài, lấy đi công ăn việc làm và góp phần vào thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ vốn được xem là một điểm tiêu cực bất kể một thực tế từ lâu là nó gắn liền với  quyền lực thương mại và chính trị của  Hoa Kỳ.
NHỮNG NHẦM LẪN VỀ QUYỀN SỞ HỮU
Ngay cả khi Washington hy vọng những nỗ lực của mình để định hình TPP sẽ xoa dịu những mối quan tâm của các giới công nghiệp và công đoàn của Hoa Kỳ, TPP đã đụng chạm đến các nhóm lợi ích công cộng và chính phủ của các nước khác đang đàm phán thỏa thuận - đặc biệt khi bàn về sở hữu trí tuệ.
Trong tháng Hai năm 2011, một văn bản dự thảo về sở hữu trí tuệ từ các cuộc đàm phán TPP đã bị rò rỉ trên mạng. Một số nhóm của Hoa Kỳ và nước ngoài như nhóm Quan sát Sở hữu Trí tuệ, nhóm Tri thức Công cộng, nhóm Quan sát TPP, và một số cá nhân ẩn danh khác chỉ trích gay gắt một số biện pháp nêu trong tài liệu. Cụ thể, họ lên án đề nghị hình sự hóa luật bản quyền và bằng sáng chế rằng điều đó vi phạm các điều ước quốc tế hiện hành giữa các quốc gia tham gia đàm phán. Những nhóm và cá nhân này cũng khẳng định TPP sẽ yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet xác định danh tính người sử dụng và Hoa Kỳ đang tìm cách áp đặt một cách phi lý các điều khoản bảo vệ bản quyền mở rộng của mình lên các thỏa thuận. Luật pháp Hoa Kỳ quy định đại đa số quyền tác giả kết thúc sau 70 năm, nhưng các nhà chỉ trích ngộ nhận rằng chính quyền Obama đã đề xuất trong TPP một điều khoản bản quyền tối thiểu đến 95 năm đối với một số đăng ký. Các học giả luật như Sean Flynn và Jimmy Koo nắm bắt được sự lo ngại của các nhà chỉ trích và đã viết vào năm 2011: TPP sẽ tạo ra "một công cụ quốc tế về sở hữu trí tuệ cực đoan nhất chống lại người tiêu dùng và chống lại sự phát triển từ trước đến nay."
Chính quyền đã ủng hộ những đề xuất này không phải để gây thiệt hại cho người tiêu dùng mà để bảo vệ các nhà đổi mới công nghệ Hoa Kỳ. Sở hữu trí tuệ đã là một nguồn giá trị chính đối với Hoa Kỳ. Ví dụ, trong năm 2010, 40% thanh toán trên toàn thế giới dành cho sở hữu tài sản trí tuệ - tương đương 100 tỷ Đô la Mỹ - đã vào tay người Mỹ. Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, giá trị này tương đương với lợi nhuận thu được từ xuất khẩu máy bay, ngũ cốc, và các dịch vụ kinh doanh, ba lĩnh vực giúp cho thương mại của Hoa Kỳ thặng dư. Sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ sẽ trở nên quan trọng hơn trong những năm tới bởi lẽ những ngành đổi mới về công nghệ tại Hoa Kỳ như  kỹ thuật sản xuất thế hệ mới và thông tin liên lạc không dây tiên tiến đang dẫn dắt nền thương mại Hoa Kỳ. Những người sáng tạo công nghệ cũng cần được bảo trợ theo các thỏa thuận TPP không kém hơn những người hiện đang nắm giữ bản quyền và bằng sáng chế theo luật pháp Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ hầu như không còn là quốc gia duy nhất gắn kết với TPP để mang lại lợi ích trong việc đảm bảo bản quyền và bằng sáng chế cho công dân của mình. Ví dụ: trong năm 2008, Nhật Bản dẫn đầu thế giới trong ứng dụng bằng sáng chế. Tương tự, Singapore đã đầu tư công nghệ sinh học trị giá nhiều tỷ đô la cũng có nhu cầu bảo vệ những nỗ lực của “gà nhà”. Hoa Kỳ cũng đã mở đường cho các quốc gia khác trong nỗ lực bảo vệ một cách đúng đắn quyền sở hữu trí tuệ của các nhà đổi mới công nghệ Hoa Kỳ. Nhưng quả thực vẫn còn một số quốc gia không tin  rằng Hoa Kỳ đếm xỉa đến lợi ích tốt nhất của họ.
CÁC CUỘC THẢO LUẬN TỰ DO
Mặc dù có lợi ích rộng lớn trong vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ với một số các quốc gia đang tham gia đàm phán TPP, một số quốc gia tiếp tục cáo buộc Hoa Kỳ đang có những đòi hỏi bất hợp lý. Ví dụ tại phiên đàm phán TPP thứ 11, tại Úc vào tháng Ba vừa qua, báo chí Úc đưa tin tất cả các thành viên đàm phán TPP đã từ chối đề nghị của Mỹ về quyền sở hữu trí tuệ. Giữa tháng Tư, một số nhà đàm phán từ Chile tỏ ra nghi ngờ về tương lai của thỏa ước khi họ đặt câu hỏi "liệu tham gia vào TPP có đáng giá không nếu phí tổn của nó bao gồm cả những đòi hỏi bổ sung về sở hữu trí tuệ."
Trong khi đó, trong suốt cuộc họp tương tự tại Úc vào tháng Ba, nhiều tổ chức lên án TPP về những tác động tiềm năng của nó đối với sự sẵn có của các loại thuốc giá rẻ. Ví dụ: Tổ chức Bác sĩ Không Biên giới cáo buộc chính phủ Hoa Kỳ chèn thêm các quy định vào TPP nhằm can thiệp việc phân phối các loại thuốc HIV/AIDS và sốt rét giá rẻ đến các quốc gia đang phát triển. Trong suốt vòng đàm phán TPP, nhóm này tuyên bố thỏa ước sẽ mở rộng sự bảo vệ độc quyền các loại thuốc nguyên gốc bằng cách thay đổi nhỏ các công thức hiện có”, do đó nó ngăn cản sự ra đời của các loại thuốc đồng dạng (generic drugs) rẻ hơn.
Chính phủ Hoa Kỳ đã không phản ứng lại tất cả các cáo buộc trong quá trình đàm phánTPP. Tuy nhiên, vào cuối tháng Hai năm ngoái, Demetrios Marantis, Phó Đại diện thương mại Mỹ, cho biết rằng văn phòng của ông "cực lực không đồng ý [s]" với Tổ chức Bác sĩ Không Biên giới. Ông này vạch rõ Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ trước đó sáu tháng đã thiết lập một chương trình TPP bao gồm chín điểm mang tên "Tăng cường Truy cập Thương mại đối với Thuốc bệnh" để đảm bảo  "các loại thuốc đồng dạng có thể xâm nhập vào thị trường một cách nhanh nhất."
Như vậy là Hoa Kỳ đã bắt đầu giải quyết những lo ngại của những người hoài nghi TPP. Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn vẫn còn đó. Trong thời đại của Internet, tin đồn về các điều khoản trong thỏa ước có thể nhanh chóng châm ngòi cho một sự chống đối trên toàn thế giới. Minh bạch hơn và thông tin tốt hơn về quá trình đàm phán có thể giúp đánh bật những tin đồn như vậy. Mặc dù Hoa Kỳ và các đối tác của mình đã  thể hiện sự tiếp thu các yêu cầu của các cá nhân và các nhóm có lợi ích liên quan thì họ cũng đã không hoàn toàn công khai quá trình đàm phán ra công chúng. Điều này càng làm gia tăng sự quan tâm chính đáng về nội dung cuối cùng của thỏa ước. Vào tháng Giêng, Gary Horlick, một luật sư thương mại tiếng tăm và là cựu viên chức thương mại của Hoa Kỳ, đã mô tả quá trình TPP là  "quá đàm phán thương mại kém minh bạch nhất mà tôi từng chứng kiến”. Mặc dù Kirk, đại diện thương mại của Hoa Kỳ, đã gọi các cuộc đàm phán là "quá trình cởi mở, minh bạch nhất từng có," nhóm công tác của ông này lại trình bày rất “kiệm lời” quan điểm của Hoa Kỳ cho công chúng hoặc thậm chí cho cả các bên có lợi ích  không tham gia chính thức vào các thảo luận TPP.
Vấn đề lên đến đỉnh điểm vào tháng Hai năm ngoái khi 23 tổ chức Hoa Kỳ đại diện cho các thư viện của hầu hết các viện nghiên cứu và trường đại học Hoa Kỳ kêu gọi chính quyền Obama "ủy quyền truy cập công cộng" vào các văn bản dự thảo đàm phán. Họ lập luận: các điều khoản của TPP "sẽ đụng chạm đến mọi gia đình Mỹ" và "việc thực thi và tính chất lâu dài của những quy định ràng buộc. . . đòi hỏi sự minh bạch tối đa." Những ngày sau đó, Thượng nghị sĩ Ron Wyden đã đưa ra yêu cầu trên trong một buổi nghe điều trần của Kirk. Đáp lại tuyên bố trên, Kirk nói rằng chính quyền Obama đã "công bố thông tin sớm hơn bất kỳ chính quyền nào trước đây."
Không hài lòng với phản ứng của Kirk, Wyden đề xuất điều khoản luật yêu cầu công bố thông tin của bất kỳ văn bản đàm phán TPP nào "không quá 24 giờ sau khi các tài liệu được chia sẻ với các bên khác." Đề xuất của Wyden đã không thể lôi kéo thêm hậu thuẫn nhưng những tiếng nói đòi hỏi cởi mở hơn trong các cuộc đàm phán TPP vẫn còn nguyên ở Hoa Kỳ và nước ngoài.
MỘT DẠNG THỨC MỚI CỦA LÀM ĂN KINH TẾ
Nếu các cuộc đàm phán về TPP đơm hoa kết trái, Hoa Kỳ sẽ trở nên mạnh mẽ hơn về kinh tế và chính trị trong thế hệ tiếp theo. Một thỏa thuận bao gồm cả Nhật Bản về cơ bản sẽ dẫn đến một thỏa ước thương mại tự do giữa Washington và Tokyo, mở đầu cho công cuộc "mở cửa lần thứ ba" mà Nhật Bản đang kiếm tìm lâu nay và là sự khẳng định sức mạnh của Hoa Kỳ ở khu vực Thái Bình Dương. Nói rộng hơn, Hoa Kỳ hy vọng rằng TPP sẽ củng cố một hệ thống thương mại mở, kết nối với nhau trên nguyên tắc đồng thuận.
Đó là lý do tại sao chính phủ Hoa Kỳ hy vọng sẽ hoàn tất những phác thảo của một thỏa thuận cuối cùng vào cuối năm nay. Nhưng trước tiên chính phủ Hoa Kỳ phải giành chiến thắng trước sự phản đối trong nước đối với TPP, đặc biệt từ các ngành ô tô, bảo hiểm và nông nghiệp. Chính phủ Hoa Kỳ cũng cần thích ứng tối đa với những quan tâm của các nhà chỉ trích trong và ngoài nước đối với các đòi hỏi về sở hữu trí tuệ. Và chính phủ Hoa Kỳ phải đạt được  thêm tiến bộ trong quá trình đàm phán. Nếu chính quyền Obama không thực hiện được những điều này, có thể sẽ bỏ lỡ một cơ hội để mở đường cho một hình thức mới của thỏa ước thương mại và tái khẳng định vai trò kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương.
 Người dịch: Quang Thành



Thứ Năm, 5 tháng 7, 2012


Chiến lược chống Trung Quốc của Washington


 Dầu mỏ thống trị thế giới. Tạo lập được ưu thế hải quân ở Biển Đông và các vùng biển lân cận, Mỹ sẽ buộc kinh tế Trung Quốc quỳ gối khi cần thiết.

 
Barack Obama và Julia Gillard đồng tâm hiệp lực kiềm chế Trung Quốc (Reuters)
Không thể xem xét các quá trình đang diễn ra hôm nay ở Trung và Cận Đông, cũng như Đông Phi bên ngoài bối cảnh sự ganh đua Mỹ-Trung. 

Cũng không thể bỏ qua thực tế là chính sách đối ngoại Mỹ là nhằm làm suy yếu Trung Quốc - đối thủ chính của Mỹ trong cuộc đấu giành quyền chi phối thế giới. 
Ta đều biết là Trung Quốc không sở hữu trữ lượng lớn tài nguyên năng lượng trên lãnh thổ của mình nên rất phụ thuộc vào nguồn cung dầu mỏ từ bên ngoài. Vịnh Persique đã trở thành thị trường dầu mỏ tiện lợi nhất cho Trung Quốc; ban lãnh đạo Trung Quốc hiển nhiên là hy vọng nó vẫn như thế trong 20-30 năm tới. Ngoài ra, lục địa châu Phi, nhất là các quốc gia vịnh GuineaSudan cũng ngày càng quan trọng trong việc bảo đảm an ninh năng lượng của Trung Quốc. 
Các tàu chở dầu mỏ Cận Đông và châu Phi đến Trung Quốc qua Ấn Độ Dương, nơi thực hiện đến 50% khối lượng vận chuyển container trên thế giới và 70% khối lượng vận chuyển sản phẩm dầu mỏ. Đồng thời, nằm ở Ấn Độ Dương là đa số trong 11 khu vực hiểm yếu nhất có nguy cơ làm tắc nghẽn việc cung cấp hydrocarbon trên thế giới: các eo biển Hormuz, Bab al Mandeb và Malacca, eo biển Lombok (Indonesia) nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, kênh đào Suez, tuyến đường vòng xa quanh mũi Hảo Vọng. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi Ấn Độ Dương đang trở thành một trong những khu vực rủi ro quan trọng nhất, nơi đụng độ lợi ích của các cường quốc khác nhau.
Việc vận chuyển dầu mỏ và hàng hóa bằng đường biển tương đối rẻ cũng như vai trò gia tăng của giao thông đường biển trong nền kinh tế thế giới trong điều kiện toàn cầu hóa đã làm gia tăng vai trò của Ấn Độ Dương như một khu vực có tầm quan trọng chiến lược. 

Với sự thay đổi tương quan sức mạnh trên thế giới trong thập kỷ 1990, Trung Quốc bắt đầu hoạch định chiến lược (đúng hơn là khái niệm) dài hạn và cực kỳ tham vọng được gọi là “Liên châu” đối với khu vực này. Thuật ngữ “Liên châu” (String of pearls - chuỗi ngọc trai) là do các chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu chiến lược Mỹ (US Strategic Studies Institute) nghĩ ra. Năm 2006, họ công bố báo cáo “Liên châu: giải pháp cho vấn đề sức mạnh gia tăng của Trung Quốc trên bờ biển châu Á”. Trong báo cáo này, các tham vọng của Trung Quốc bảo vệ tuyến đường mà họ xây dựng bị xem là thách thức trực tiếp đối với sự bá quyền của Mỹ trong khu vực. 
Yếu tố năng lượng đã đóng vai trò then chốt trong việc Trung Quốc xây dựng chiến lược “Liên châu”. Hơn 85% dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ được vận chuyển tới Trung Quốc từ vịnh Persique và châu Phi qua Ấn Độ Dương đi qua eo biển hẹp Malacca thường xuyên bị hải tặc tấn công. Nhận thấy sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn cung dầu mỏ từ bên ngoài, Bắc Kinh đang cố bảo vệ mình trước bất kỳ mưu toan nào cắt đứt các tuyến đường cung cấp năng lượng. Bản chất của chiến lược “Liên châu” là thiết lập các điểm tựa của Trung Quốc dưới dạng các căn cứ hải quâ và không quân hay các hải cảng “thân hữu” trải dài từ đảo Hải Nam của Trung Quốc đến cảng Gwadar của Pakistan và dùng để bảo đảm an toàn cho việc cung cấp dầu mỏ đến Trung Quốc. 
Chiến lược của Obama 
Tháng 11/2011-tháng 1/2012, Barack Obama đã công bố hàng loạt nội dung thú vị trong chính sách Đông Á của mình. Tháng 11/2011, Tổng thống Mỹ thực hiện chuyến thăm các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương và tham gia hội nghị của ASEAN và Thượng đỉnh Đông Á EAS. Chủ đề quan trọng của các cuộc đàm phán là thảo luận tình hình xung quanh các quần đảo tranh chấp ở Biển Đông. Như ta đã biết, hiện có nhiều nước như Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Đài Loan đều tuyên bố chủ quyền đối với thềm lục địa của quần đảo Trường Sa giàu khoáng sản.
Ngay trước Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á ở Indonesia, Barack Obama đã ký với Thủ tướng Australia Julia Gillard hiệp định triển khai quân đội Mỹ tại căn cứ quân sự Darwin. Vào năm 2012, tại căn cứ nằm ở Các lãnh thổ phía bắc (một đơn vị hành chính của Australia), sẽ triển khai 200-250 lính thủy đánh bộ, cũng như các tàu của hài quân Mỹ và máy bay. Còn đến năm 2016, căn cứ Darwin sẽ tiếp nhận 2.500 lĩnh Mỹ và “một số lượng nào đó các binh đoàn hải quân và không quân”, mà con số cụ thể thì công chúng hiện chưa biết gì cả. Hoàn toàn có thể là một phần trong đội quân Mỹ 100.000 người ở châu Phi trong tương lai sẽ được chuyển tới căn cứ Darwin. 
Phát biểu tại nghị viện Australia, Barack Obama tuyên bố: “Với tư cách tổng thống, tôi đã đưa ra một quyết định chiến lược được suy tính kỹ. Mỹ là một quốc gia Thái Bình Dương nên chúng tôi sẽ đóng vai trò quan trọng hơn và lâu dài trong việc định hình khu vực này. Chúng tôi sẽ duy trì khả năng tung sức mạnh quân sự độc nhất vô nhị và răn đe các mối đe dọa vì hòa bình của chúng tôi. Mỹ là một thế lực Thái Bình Dương, và chúng tôi đã đến châu Á để ở lại đây”, và nói thêm rằng, “Mỹ không sợ Trung Quốc, quốc gia lớn mạnh nhất trong khu vực”. 
Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ là Ben Rhodes giải thích các phát biểu của Barack Obama: “Hiệp định quân sự về việc triển khai đạo quân Mỹ ở Australia – đó là tín hiệu cho thấy, chúng tôi dự định tiếp tục đóng vai trò then chốt trong bảo đảm an ninh ở phần này của khu vực, nơi sức mạnh quân sự Trung Quốc đang gia tăng”. Có lẽ việc Lầu Năm góc thành lập cơ quan quân sự mới là Air See Battle Command (Bộ chỉ huy Tác chiến không-hải) mà một trong các nhiệm vụ được công bố chính thức là chuẩn bị toàn diện cho Hải quân, Không quân và Thủy quân lục chiến  Mỹ cho nhiệm vụ vô hiệu hóa một quốc gia X. Do trong danh sách các mối đe dọa tiềm tàng Air See Battle Command có nêu ra các chiến hạm, tàu ngầm, máy bay, tên lửa chống hạm và vệ tinh do thám Trung Quốc, nên chẳng khó khăn gì để đoán ra quốc gia X mà các nhà hoạch định chương trình cho Air See Battle Command định đánh nhau là Trung Quốc. 
Những câu hỏi về lý do lập căn cứ quân sự mới của Mỹ ở Australia vẫn nhiều hơn những câu trả lời. Trước hết là những mục tiêu thực sự của việc chính phủ Mỹ quân sự hóa khu vực này lần đầu tiên sau chiến tranh Việt Nam là gì và một căn cứ quân sự mới trên lãnh thổ một trong những quốc gia hòa bình nhất khu vực để làm gì? Viên tướng không quân Mỹ phụ trác hoạch định chiến lược của các lực lượng quân ự Mỹ ở Thái Bình Dương Michael Keltz tình cờ hé lộ rằng, các tiêm kích F-22, máy bay vận tải C-17, cũng như máy bay ném bom chiến lược sẽ được triển khai ở Australia.
Vì thế, nghe ra rất nước đôi là những lời nói của Tổng thống Mỹ đương nhiệm rằng, “chúng tôi đã kết thúc tất cả các cuộc chiến, và vì thế tôi giao phó cho đội chuyên gia an ninh quốc gia của mình nhiệm vụ bảo đảm sự hiện diện ở châu Á-Thái Bình Dương với tư cách nhiệm vụ ưu tiên”. 
Ngoại trường Mỹ Hillary Clinton trên tạp chí Foreign Policy đã viết rằng, hiện tại, một nước Mỹ suy yếu về kinh tế không thể cho phép mình là cường quốc chi phối đồng thời ở mấy khu vực trên thế giới. Bởi vậy, có thể dự đoán rằng, các nỗ lực đối ngoại của Mỹ sẽ chủ yếu nhằm vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, chưa rõ những nước nào ở châu Á-Thái Bình Dương giao cho Mỹ sứ mệnh “đóng vai trò đáng kể và lâu dài trong việc định hình tương lai” của khu vực này. 

Chính sách mà Mỹ toan tính thực thi ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ khiến lãnh đạo Trung Quốc cực kỳ lo ngại bởi vì một căn cứ quân sự  ở Australia sẽ khóa kín vành đai các căn cứ quân sự Mỹ bao quanh Trung Quốc và tạo ra cho Washington khả năng kiểm soát các tuyến đường giao thương đường biển trọng yếu nhất mà qua đó một lượng hàng hóa có tổng trị giá 5.000 tỷ USD được vận chuyển hàng năm. 

Người Mỹ đang sẵn sàng bổ sung thêm thành tố kinh tế cho khía cạnh quân sự trong chính sách Đông Á của họ. Theo Аssociated Press, trong Hội nghị Thượng đỉnh APEC diễn ra ở Hawaii vào năm 2011, Obama đã tuyên bố rằng, Mỹ đang xem xét ý tưởng lập tổ chức thương mại khu vực mới không có sự tham gia của Trung Quốc. Như vậy, giới tinh hoa chính trị Mỹ chắc chắn dự định đối phó một cách tổng hợp với Trung Quốc. Bao vây xung quanh Trung Quốc bằng “các liên minh quốc phòng” với các quốc gia khác ở khu vực (ngoài Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines, còn có các liên minh với Việt Nam, Myanmar và Singapore), Washington trong khuôn khổ “học thuyết kiềm chế” của họ còn muốn dựng lên các rào cản kinh tế đối với Bắc Kinh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. 

Theo tác giả của cuốn sách “Máu và dầu mỏ” của Giáo sư Trường Hampshire College Michael Klare, ý nghĩa của chiến lược mới của Obama là rất rõ ràng: “Từ nay, nội dung chính của chiến lược quân sự Mỹ sẽ không phải là đối phó với chủ nghĩa khủng bố mà kiềm chế một quốc gia đang phát triển bùng nổ về kinh tế bất kể rủi ro và cái giá của vấn đề”. Ở ý nghĩa này, căn cứ quân sự Mỹ ở Australia có thể xem như một trong những bộ phận của vành đai cách ly mà Mỹ muốn dùng để khóa chặt Trung Quốc, ngăn Trung Quốc tiếp cận đại dương thế giới và kiể soát các tuyến đường biển cung cấp dầu mỏ và khí hóa lỏng cho Trung Quốc.

Sự đối kháng vũ trang, trong bối cảnh đó, không phải là mục tiêu cuối cùng và bất biến. Bằng cách mở rộng tiềm lực quân sự của mình trong khu vực, Mỹ sẽ kích động Trung Quốc có những hành động đáp trả đối xứng và gia tăng hơn nữa chi phí cho quân bị. Như vậy, mục đích chính của “chính sách kiềm chế” này là gây áp lực và bằng cách đó làm suy yếu Trung Quốc về mặt kinh tế bằng cách buộc Trung Quốc chi những khoản tiền khổng lồ cho quốc phòng, chứ không phải cho bành trường sản xuất-thương mại.

Những rủi ro trên các tuyến đường biển 

Việc tiếp cận các nguồn năng lượng, hệ thống tuần hoàn của nền kinh tế thế giới, đang mỗi năm một khó khăn hơn đối với các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Hiện nay, người ta đã hiểu rằng, dầu mỏ và khí đốt giá rẻ trong tương lai gần chắc chắn sẽ không có. Trong khi đó, Mỹ trong các thập niên gần đây tiêu thụ đến 40% toàn bộ tài nguyên thiên nhiên của trái đất, trong khi các nhu cầu của các nước như Trung Quốc và Ấn Độ thì liên tục tăng. 

Đã xuất hiện một xu hướng rõ ràng là các nước đang phát triển, nơi tập trung các trữ lượng chủ yếu tài nguyên năng lượng của thế giới đang tiến hành quốc hữu hóa các nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình để có được nguồn thu cao hơn cho ngân sách quốc gia. 

Trong giới phân tích phương Tây xác lập quan điểm cho rằng, nếu như một cuộc xung đột vũ trang sẽ xảy ra lúc nào đó giữa Mỹ và Trung Quốc thì chỉ là vì chuyện chia chác các nguồn tài nguyên năng lượng đang tan biến từng ngày. 

Rõ ràng là trong những năm tới, chuyện đó khó lòng xảy ra, tuy nhiên cuộc đấu tranh ngầm để giành giật các mỏ dầu khí sẽ diễn ra không ngừng. Theo dự báo, vào năm 2020, Trung Quốc sẽ tiêu thụ tới 13,6 triệu thùng dầu/ngày và đến 16,9 triệu thùng dầu/ngày vào năm 2035, khi nhu cầu dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc sẽ là 11,6 triệu thùng. Vì thế, sự cạnh tranh giành dầu mỏ giữa các nước tiêu thụ chủ yếu trong tương lai sẽ gia tăng nhiều lần.

Nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc từ Cận Đông, châu Phi và Mỹ Latinh sẽ tăng mạnh, còn các rủi ro chủ yếu sẽ tiềm ẩn trên các tuyến đường biển dài lê thê. Như Michael Klare viết trên tạp chí European Energy Review, 
“Bằng cách tạo lập cho mình ưu thế hải quân ở Biển Đông và các vùng biển lân cận, chính quyền Obama rõ ràng nhắm tới việc giành lấy công cụ năng lượng trong thế kỷ XXI có giá trị tương đương cái gọi là hăm dọa hạt nhân trong thế kỷ XX. Chỉ cần các vị đụng chạm đến lợi ích của chúng tôi là chúng tôi sẽ buộc nền kinh tế của các vị phải quỳ gối bằng cách chặn đứng dòng chảy của nhiên liệu có tầm quan trọng sống còn”, chuyên gia Mỹ này đánh giá ý nghĩa của chính sách mới của Obama như vậy. 

Đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển dầu mỏ tới Trung Quốc là Yemern, vốn là một khu vực chiến lược trọng yếu tiếp giáp với vịnh Persiquae và bán đảo Arab. Các quan chức Trung Quốc gần đây có nói về sự cần thiết thiết lập các căn cứ hải quân tại khu vực quan trọng này đối với họ. Tuy nhiên, việc gây mất ổn định ở Yemen và sự dính líu của Mỹ vào cuộc xung đột Yemen đã ngăn chặn các ý đồ của Trung Quốc. Quốc gia duy nhất trong khu vực mà ở đó Trung Quốc có thể xây dựng căn cứ hải quân là Iran bởi lẽ ở tất cả các quốc gia đáng quan tâm còn lại đều có sự hiện diện quân sự của các cường quốc phương Tây. Căn cứ tình hình chính trị rối ren ở Kenya và Somalia, có thể phỏng đoán rằng, khoảng chân không tại một không gian hoàn toàn không bị phân chia dọc theo bờ Tây Ấn Độ Dương sắp tới có thể bị lấp đầy bởi các đạo quân hạn chế của NATO.

Theo các chuyên gia quân sự Mỹ, mục tiêu chính của Obama sẽ là thiết lập sự hiện diện quân sự lâu dài ở Yemen. Chính sách này sẽ đáp ứng hàng hoạt nhiệm vụ mà quan trọng nhất trong số đó sẽ là giành quyền kiểm soát tuyệt đối đối với cảng AdenYemen vốn thường được mệnh danh là “cánh cửa mở sang châu Á”. 
Kiểm soát được Aden và eo biển Malacca sẽ đặt Mỹ vào vị thế vô song trong “ván cờ lớn” ở Ấn Độ Dương. Bằng cách đặt các tuyến đường biển ở Ấn Độ Dương dưới quyền kiểm soát của mình, Washington sẽ kiềm chế được sự gia tăng sức mạnh kinh tế của Trung Quốc. Bởi vậy, Mỹ chọn chỗ dựa là Ấn Độ, quốc gia đang tìm cách hạn chế các tham vọng của Trung Quốc và bảo vệ lợi ích của họ ở khu vực Ấn Độ Dương.

Trong khi đó, sự hoành hành của hải tặc tại vịnh Aden và Ấn Độ Dương đang trở thành một thứ công cụ để tác động đến an ninh năng lượng của Trung Quốc. Các cuộc tấn công cướp biển nhằm vào các thương thuyền vẫn diễn ra không ngừng và theo một số nguồn tin, những kẻ bị gọi là hải tặc Somalia đang nhận được thông tin từ các hãng bảo hiểm hàng hải Anh, còn tàu bè, thiết bị và vũ khí chúng nhận được từ Mỹ. 

Khi một số nước đề nghị tăng cường đấu tranh chống cướp biển thì Mỹ và Anh thường phong tỏa các sáng kiến đó ở Liên Hiệp Quốc vì các lý do “nhân đạo”. Như vậy, những quốc gia chủ yếu và về thực chất là duy nhất chống lại việc thông qua các quy tắc luật pháp quốc tế nhằm chống hải tặc lại là WashingtonLondon. Điều đó khiến người ta nghĩ đến chuyện lãnh đạo Mỹ và Anh muốn sự tồn tại và phát đạt của cướp biển. 

Những mất mát đau đớn của Trung Quốc ở châu Phi 

Trong chuỗi các cuộc cách mạng ở thế giới Arab, Libya chiếm một vị trí đặc biệt. Chính ở đó vào năm 2011, liên minh phương Tây đã  giáng một đòn chí mạng vào các lợi ích của Trung Quốc ở châu Phi. Theo bình luận của Paul Craig Roberts, nhân vật đảng Cộng hòa, cựu thứ trưởng tài chính Mỹ dưới thời Ronald Reagan, đăng trên tạp chí Mỹ Foreign Policy, “Trung Quốc đã thực hiện những dự án đầu tư năng lượng quy mô lớn tại miền Đông Libya và trông cậy vào nó, cùng với Angola và Nigeria, về mặt nhu cầu năng lượng của mình”. Vì vậy, theo ông này, cuộc chiến ở Libya là “nỗ lực của Mỹ ngăn chặn cung cấp tài nguyên cho Trung Quốc”. Thực vậy, vào đầu năm 2011, đã có 75 công ty lớn của Trung Quốc hoạt động ở Libya và ký kết các hợp đồng tổng giá trị 18 tỷ USD. Do chiến dịch quân sự của NATO ở Libya, Trung Quốc đã buộc phải đình chỉ 50 dự án lớn đang tiến hành tại quốc gia Bắc Phi này và sơ tán 30.000 chuyên gia Trung Quốc đang làm việc chủ yếu trong khu vực dầu mỏ ở miền Đông Libya. Kết quả là Trung Quốc mất toi những khoản tiền khổng lồ đã đầu tư vào nền kinh tế Libya.

Trong các điện tín ngoại giao Mỹ mà WikiLeaks tiết lộ, các nhà ngoại giao Mỹ đã ghi nhận “sự bùng nổ quan tâm đến Libya từ phía các công ty dầu mỏ quốc tế không phải của phương Tây (trong đó có các công ty của Ấn Độ, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc), các công ty này gần đây đã nhận được nhiều hợp đồng nhượng quyền từ Công ty Dầu mỏ quốc gia Libya”. Các công ty này đã có khả năng tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ với các công ty dầu khổng lồ của Mỹ và Tây Âu. Ngay trước khi bùng nổ chiến sự do Liên minh Bắc Đại Tây Dương phát động ở Libya, trong số 10 công ty dầu nước ngoài đang khai thác dầu mỏ ở nước này giữ vị trí dẫn đầu là công ty CNPC của Trung Quốc. Vì vậy, 
nhiệm vụ của chiến dịch Libya là chặn đứng xu hướng nguy hiểm của việc Libya chuyển hướng từ các công ty dầu mỏ Mỹ và châu Âu sang các công ty châu Á và trước hết là đánh vào lợi ích của Trung Quốc, điểm đến của tới 11% tổng khối lượng dầu mỏ Libya. Mỗi năm, con số này hiển nhiên sẽ chỉ có tăng. Ngoài ra, vào tháng 1/2009, Gaddafi đã dại dột đe dọa quốc hữu hóa toàn bộ ngành dầu mỏ và khí đốt, còn trước đó thì ông đã buộc các hãng dầu khí phương Tây hoạt động ở Libya ký lại các hợp đồng của mình với chính phủ Libya theo những điều kiện bất lợi cho các công ty xuyên quốc gia. Việc đe dọa bắt buộc ký lại các hợp đồng, theo các nhà ngoại giao Mỹ, đã tạo ra một tiền lệ quốc tế nguy hiểm, “có thể lặp lại nhiều lần trên toàn thế giới ở các nước sản xuất dầu”. Bởi vậy, cần phải trừng trị Gaddafi, kẻ dám khuấy động sự bình yên.




 
Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào dẫn đầu các nguyên thủ các nước thành viên APEC (Reuters)
Trong một thời gian dài, một số chuyên gia đã cố chứng minh cho chúng ta rằng, cuộc xâm lược của nước ngoài vào Libya không hề liên quan đến các lợi ích dầu mỏ của các cường quốc phương Tây, mà chỉ liên quan đến mong muốn cực đoan của NATO giúp đỡ nhân dân Libya có được nền dân chủ hằng mong muốn. 
Nhưng từ tháng 1/2012, vô số các nguồn thông tin từ các nước khác nhau trên thế giới bắt đầu đưa tin việc đội quân Mỹ đổ bộ vào Libya. Nguồn đầu tiên đưa ra những tin tức này rõ ràng là tờ báo quốc tế tiếng Arab lâu đời nhất Asharq Al-Awsat, hoạt động ở London từ năm 1978. Ngoài ra, hàng loạt báo chí và hãng tin khác cũng đã xác nhận thông tin này. 
Thực chất là có 12.000 lính NATO đã đổ bộ xuống gần thành phố Marsa el Brega với chiêu bài “cần hỗ trợ ổn định trong khu vực và bảo đảm an ninh cho dân thường”. Theo các site của Israel, lính thủy đánh bộ Mỹ đã được điều động từ Malta để bảo đảm nguồn cung liên tục dầu mỏ Libya ra thị trường thế giới với giá hạ.
Ai cũng biết rằng, Marsa el Brega là một trong những bộ phận trọng yếu nhất của hạ tầng dầu mỏ Libya, nằm ở đây có các cơ sở lọc dầu và bơm dầu, một nhà máy khí hóa lỏng. Tại Brega còn có một trong hai cảng xuất khẩu dầu mỏ Libya. Nhà máy thứ hai đặt tại thành phố Ras Lanuf nằm cách Marsa el Brega khoảng 70 km. Bởi vậy, việc đặc nhiệm Mỹ đổ bộ rõ ràng là vì muốn chiếm giữ và kiểm soát các cơ sở then chốt của hạ tầng dầu mỏ Libya, cũng như nhằm bảo đảm việc cung cấp không gián đoạn hydrocarbon cho các đồng minh châu Âu. 
Đáng chú ý là việc chiếm giữ các cảng xuất khẩu dầu mỏ của Libya trùng về thời gian với việc EU thông qua các biện pháp trừng phạt kinh tế chống Iran và châu Âu tự nguyện từ bỏ dầu mỏ của Iran. Bởi vậy, các nhà lãnh đạo châu Âu nay chắc chắn phải muốn thu xếp nguồn cung dầu mỏ Libya để giảm thiểu tối đa các hậu quả tiêu cực của việc cấm vận mua bán dầu mỏ của Iran đối với kinh tế châu Âu. Nhiệm vụ tung dầu mỏ giá rẻ ra thị trường năng lượng thế giới như vậy xem ra không phải là bất khả thi. Điều tương tự đã có thể thấy ở Iraq sau khi Mỹ chiếm đóng nước này vào năm 2003, khi chính quyền mới ở Iraq dưới sự giám sát chặt chẽ của quân đội Mỹ đã bảo đảm cung cấp các nguồn năng lượng với giá tượng trưng cho “những người giải phóng” mình (Mỹ).
Tình hình ở Nigeria, quốc gia đứng thứ 7 thế giới về khai thác dầu mỏ và chiếm 1/2 tổng trữ lượng khí đốt của châu Phi, cũng căng thẳng đột biến. Nigeria ngày nay là một trong những nhà sản xuất dầu thô nhẹ, có hàm lượng lưu huỳnh thấp, tức là loại dầu thô có chất lượng rất cao mà Libya đang sản xuất và cũng đang được khai thác ở Biển Bắc với trữ lượng đang cạn kiệt. 

Ngoài ra, Nigeria còn là một trong những nhà cung cấp năng lượng chủ chốt cho Trung Quốc. Hợp tác giữa Nigeria với Trung Quốc trong những năm gần đây phát triển với tốc độ chưa từng thấy: theo tính toán khiêm tốn nhất, Trung Quốc đã đầu tư vào Nigeria trên 12 tỷ USD. Tháng 5/2010, ban lãnh đạo Trung Quốc đã ký một hợp đồng khổng lồ trị giá 28,5 tỷ USD với chính phủ Nigeria để xây dựng 3 nhà máy lọc dầu mới. Đây là hợp đồng lớn nhất mà Trung Quốc từng ký ở châu Phi. Các công ty Trung Quốc cũng tham gia vào các cuộc đấu thầu. Ví dụ, tháng 7/2010, Công ty dầu mỏ quốc gia Trung Quốc CNPC đã thắng thầu 4 lô dự kiến có dầu, 2 ở đồng bằng sông Niger và 2 ở ranh giới với lưu vực Chad. 

Việc Nigeria chuyển hướng sang Trung Quốc không thể không làm cho Mỹ và EU lo ngại khi họ đang mất dần chỗ đứng trên thị trường dầu mỏ của quốc gia châu Phi này mà trước đây là lãnh đại của các công ty xuyên quốc gia Anh-Mỹ. Trong những năm gần đây, nhận được hợp đồng thăm dò các khu vực dầu khí tiềm năng nhất không phải là các công ty phương Tây mà là các công ty Trung Quốc.

Yếu tố khủng bố 
Tuy nhiên, tình hình chính trị ở Nigeria đầy bất ổn. Ngoài cuộc khủng hoảng kinh tế mà quốc gia Phi châu này đang chịu đựng, còn có thêm sự căng thẳng sắc tộc và tôn giáo. Nigeria là quốc gia của 250 bộ lạc, được chia gần như thành 2 cộng đồng Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. 12 bang miền Bắc Nigeria, nơi các phần tử Hồi giáo đã bám rễ vững chắc từ lâu, sống theo luật Hồi giáo Shariat. Năm ngoái, các phần tử Hồi giáo Nigeria đã đẩy mạnh hoạt động khủng bố. Ví dụ, sát cuối tháng 12/2011, ở Nigeria đã xảy ra hàng loạt vụ khủng bố chống người Thiên Chúa giáo. Trước đó, các phần tử Hồi giáo cực đoan đã tấn công các trạm kiểm soát của quân chính phủ. Trong năm nay, các cuộc tấn công khủng bố vẫn tiếp diễn. 
Ngày 3/1/2012, người Thiên Chúa giáo sinh sống ở các bang miền Bắc Nigeria theo luật Shariat bị ra tối hậu thư yêu cầu lập tức rời miền Bắc nước này. Đưa ra tối hậu thư là tổ chức khủng bố Boko Haram, tổ chức đã nhận trách nhiệm về các cuộc khủng bố vào tháng 12/2011. Boko Haram đã gần 10 năm nay liên tục tiến hành các vụ khủng bố và tấn công người Thiên Chúa giáo và các công dân Nigeria không muốn sống theo luật Shariat.
Boko Haram thường được gọi là “Taliban châu Phi” hay “Taliban đen”. Năm 2004, tổ chức này đã lập căn cứ ở bang Yobe, Nigeria, nơi họ gọi một cách hình tượng là “Afghanistan”. Không có gì ngạc nhiên trong việc lựa chọn cái tên đó bởi vì Boko Haram duy trì quan hệ chặt chẽ với Al Qaeda và phong trào Taliban ở Afghanistan và được các tổ chức này năm 2010 hứa hẹn hậu thuẫn cho “những người anh em” ở Nigeria, có nghĩa là trong trường hợp tình hình căng thẳng ở Nigeria, các phần tử Taliban có thể ra tay giúp đỡ các phần tử khủng bố của Boko Haram.
Ngoài ra, ở Nigeria còn tồn tại các băng cướp chuyên nghiệp thường xuyên tấn công các tuyến đường ống dẫn dầu. Ví dụ, các tay súng của Phong trào giải phóng đồng bằng sống Niger thường xuyên tập kích các cơ sở dầu mỏ để đòi chính phủ chia sẽ nguồn thu dầu mỏ với dân chúng các tính ở lưu vực sông Niger. Bằng các cuộc tấn công cướp bóc, các băng cướp địa phương này phong tỏa hoạt động của các công ty dầu mỏ nước ngoài và điều kỳ lạ là mục tiêu mà chúng thường tấn công nhất chính là các công ty Trung Quốc hoạt động ở Nigeria.
Một đòn nặng giáng vào lợi ích của Trung Quốc diễn ra vào năm ngoái là việc công nhận độc lập của Nam Sudan, một quốc gia mới thành lập, nhưng sở hữu trữ lượng dầu mỏ lớn vì thế là mối quan tâm đối với Trung Quốc. Mỹ hoàn toàn có cơ sở để coi Nam Sudan, quốc gia vừa tuyên bố độc lập vào tháng 7/2011, là một trong những đồng minh chủ chốt của mình ở châu Phi: chính phủ Mỹ trong mấy thập kỷ đã vấn động cho việc thành lập nhà nước Nam Sudan có chủ quyền và ủng hộ những người muốn ly khai khỏi Khartoum. Bởi vậy, chính quyền Juba (thủ đô Cộng hòa Nam Sudan) nhìn nhận một cách logic rằng, Washington là đồng minh chiến lược chủ yếu của họ và sẵn sàng cung cấp lãnh thổ của mình để lập căn cứ quân sự có thể là lớn nhất của Mỹ ở châu Phi. 

Ngoài ra, các tập đoàn Mỹ đang xây dựng một dự án tham vọng xây dựng các tuyến đường ống dẫn dầu từ Nam Sudan đến bờ biển Đại Tây Dương của châu Phi, đến Cameroon, từ đó dầu mỏ sẽ có thể được chở bằng các tàu chờ dầu đến Mỹ. Bởi vì giá thành khai thác dầu ở Đông Bắc Phi thuộc loại thấp nhất thế giới nên Mỹ sẽ có thể nhận qua tuyến đường ống xuyên Phi (Nam Sudan - Cộng hòa Trung Phi - Cameroon) dầu mỏ giá rẻ nhất thế giới và theo tuyến đường ngắn nhất. Nằm ở Nam Sudan là các mỏ dầu chính của quốc gia một thời thống nhất Sudan. Hiện nay, tuyến đường ống dẫn dầu duy nhất tồn tại chạy từ miền nam lên miền bắc, đến Port Sudan, từ đó các tàu chở dầu vận chuyển dầu mỏ đến châu Á, trước hết là đến Trung Quốc. Nhưng nếu như ra đời “tuyến Cameroon” thay thế thì Trung Quốc có thể không còn dầu mỏ Sudan. Có lẽ, để đạt mục tiêu đó, Tổng thống Mỹ Barack Obama vào tháng 10/2011 đã quyết định phái quân Mỹ đến Uganda với cớ công khai là tham gia chống các phần tử cực đoan trong khu vực. Tuy nhiên, theo một số nhà phân tích, mục tiêu ngầm của Mỹ trong chiến dịch ở Trung Phi là “làm sạch mặt bằng” các khu vực lãnh thổ đang kiểm soát cho các tuyến đường ống dẫn dầu mới. Barack Obama đang cố gắng bảo đảm an toàn cho các tuyến đường xuất khẩu dầu mỏ bằng cách thiết lập trật tự trên các vùng lãnh thổ mà các tuyến đường ống từ Nam Sudan có tầm quan trọng chiến lược đối với Washington sắp tới có thể chạy qua.

 
Mỹ đang dùng mọi biện pháp để phá chiến lược Liên châu, kiềm chế Trung Quốc, bất kể là chính trị, kinh tế, quân sự, kể cả chiến tranh, đảo chính, nội chiến, khủng bố, hải tặc...

Một thất bại nặng nề của Trung Quốc là dự án bất thành xây dựng tuyến đường ống dẫn dầu Sudan - Libya - tuyến đường ống dẫn dầu xuyên Phi đầu tiên không nằm dưới sự kiểm soát của các cường quốc phương Tây, mà theo kế hoạch là được thực hiện vào năm 2011. Tuyến đường ống dẫn dầu này lẽ ra sẽ nối Biển Đỏ với Địa Trung Hải và chạy theo tuyến Port Sudan - Khartoum - Fezzan - Benghazi. Việc mở tuyến đường ống dẫn dầu này có thể chuyển hướng cung cấp dầu mỏ Libya từ EU sang Trung Quốc, quốc gia đang bảo trợ cho chính quyền Sudan hiện nay. Tuy nhiên, các sự kiện đã biết ở Libya chỉ trong chớp mắt đã xóa sạch các kế hoạch này của Bắc Kinh. 

Như vậy, sự đối đầu Mỹ-Trung ở châu Phi và Cận Đông vẫn đang tiếp diễn và c
hiều kích quan trọng của nó đang là yếu tố năng lượng và các vấn đề an toàn vận chuyển tài nguyên năng lượng. Hiện thời, về mặt này, Mỹ đang thắng thế khi chậm rãi đẩy bật các công ty Trung Quốc khỏi các khu vực có dầu mỏ. 

Có vẻ như trong những năm tới, cuộc tranh đấu này sẽ tiếp diễn cả ở những nước giàu tài nguyên thiên nhiên khác. Ngoài ra, đang được bổ sung cho cuộc tranh giành tài nguyên năng lượng là các chiều kích quân sự và kinh tế. Mỹ đang cố gắng kiềm chế Trung Quốc bằng cách gây áp lực quân sự nhất định đối với Trung Quốc và dựng lên “các khối quân sự” với nước châu Á. Nhiệm vụ của Mỹ là rõ ràng: Washington cần cô lập hoàn toàn Trung Quốc bằng cách lợi dụng nỗi sợ hãi của các quốc gia láng giềng của Trung Quốc xuất hiện trước hết do sức mạnh kinh tế của con rồng đang lên Trung Quốc.