NGUỒN GỐC CỦA
QUYỀN LỰC,THỊNH VƯỢNG, VÀ NGHÈO KHÓ
Vì sao các quốc gia thất bại
Daron Acemoglu and Jemes A. Robinson
March 20, 2012
LỜI GIỚI THIỆU
Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ hai mươi ba* của tủ sách SOS2,
cuốn Vì sao các Quốc gia Thất bại của hai nhà khoa học Daron
Acemoglu (giáo sư kinh tế học, MIT) và James A. Robinson (giáo sư Quản lý nhà
nước, Đại học Havard) vừa xuất bản ở Mỹ đầu năm 2012. Tiêu đề phụ của cuốn sách
là, nguồn gốc của quyền lực, sự thịnh vượng, và nghèo khó. Cuốn sách tìm câu
trả lời cho câu một hỏi đơn giản nhưng đã làm cho nhiều học giả đau đầu trong
nhiều thế kỷ qua: vì sao một số quốc gia giàu và nhiều quốc gia nghèo?
Đã có nhiều lý thuyết (giả thuyết) tìm cách
giải đáp cho câu hỏi này hay giải thích hiện tượng bất bình đẳng thế giới nhức
nhối đó. Có các giả thuyết về địa lý, văn hóa, sự thiếu hiểu biết của các nhà
lãnh đạo quốc gia, nhưng các lý thuyết này đều không trả lời được một cách thỏa
đáng cho câu hỏi đơn giản nêu trên.
Acemoglu và Robinson đưa ra giả thuyết về các
thể chế chính trị là cái quyết định chứ không phải địa lý, văn hóa, hay sự
thiếu hiểu biết.
Lập luận đại thể như sau: một quốc gia giàu
nếu phần lớn công dân của nó tham gia vào các hoạt động kinh tế, tạo ra nhiều
của cải một cách hiệu quả, luôn tìm cách mới để thực hiện các nhiệm vụ (cũ và
mới) sao cho hiệu quả hơn.
Nhưng cái gì khiến các tác nhân kinh tế (cá
nhân, hộ gia đình, các công ty) làm như vậy? Đó là các khuyến khích
(incentive). Không có các khuyến khích, không có động cơ người ta không tích
cực làm việc; các phản khuyến khích thậm chí còn gây ra tác hại. Nghiên cứu các
khuyến khích là một trong những nội dung chính của kinh tế học (và khoa học xã
hội nói chung khi khuyến khích được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ là khuyến
khích kinh tế).
Song cái gì định hình các khuyến khích? Đó là
các thể chế kinh tế. Các thể chế kinh tế là các quy tắc ảnh hưởng đến nền kinh
tế hoạt động thế nào và đến các khuyến khích thúc đẩy người dân ra sao. Các tác
giả phân ra hai loại thể chế kinh tế: thể chế kinh tế bao gồm (inclusive
economic institution) và các thể chế kinh tế khai thác (extractive economic
institution).
Các thể chế kinh tế bao gồm bảo đảm: các quyền
tài sản an toàn; luật pháp và trật tự; các thị trường và sự ủng hộ của nhà nước
đối với các thị trường (qua các dịch vụ công và các quy định); dễ tham gia hoạt
động kinh tế; tôn trọng các hợp đồng; đa số nhân dân được tiếp cận đến giáo dục
và đào tạo và các cơ hội.
Ngược lại thì các thể chế kinh tế là khai
thác: thiếu luật pháp và trật tự; các quyền tài sản không an toàn; các rào cản
tham gia và các quy chế cản trở hoạt động của các thị trường và tạo ra sân chơi
không bằng phẳng.
Cuối cùng, các thể chế kinh tế hình thành trên
cơ sở nào? Các thể chế chính trị định hình các thể chế kinh tế. Các tác giả
phân biệt hai loại thể chế chính trị: bao gồm và khai thác.
Các thể chế chính trị bao gồm bảo đảm: điều
kiện cho sự tham gia rộng rãi của các công dân – chủ nghĩa đa nguyên – đặt ra
các ràng buộc và kiểm soát đối với các chính trị gia; nền pháp trị; nhà nước
tập trung ở mức đủ để thực thi luật pháp và trật tự (nhưng không quá tập trung
để biến thành chính thể chuyên chế).
Ngược lại, các thể chế chính trị mang tính
khai thác: tập trung quyền lực chính trị vào tay một số ít người; không có các
ràng buộc lên các chính trị gia hay kiểm soát và cân bằng hay thiếu nền pháp
trị.
Các thể chế kinh tế bao gồm thúc đẩy tăng
trưởng thông qua: khuyến khích đầu tư; tận dụng sức mạnh thị trường trong phân
bổ nguồn lực, sự tham gia của các hãng hiệu quả hơn, có khả năng tài trợ vốn
cho kinh doanh khởi nghiệp; tạo điều kiện cho sự tham gia rộng rãi thông qua
tạo cơ hội bình đẳng, để các công dân có cơ hội giáo dục và đào tạo; và quan
trọng nhất khuyến khích đầu tư vào công nghệ mới và chấp nhận sự phá hủy sáng
tạo. Như thế, các thể chế bao gồm tạo ra các khuyến khích để các tác nhân kinh
tế hoạt động hiệu quả và kết quả là tạo ra tăng trưởng bền vững, và như thế
thường dẫn các quốc gia đến giàu có.
Tăng trưởng, tuy vậy luôn luôn kéo theo những
kẻ thắng và những người thua. Những kẻ thắng thường ủng hộ, song những người
thua thường chống đối. Những người thua về kinh tế và nhất là những người thua
(hay có khả năng bị thua) về mặt chính trị thường ngăn cản quyết liệt. Và đấy
chính là logic của các thể chế khai thác: những người có quyền thế sợ sự mất
quyền lực, sợ sự phá hủy sáng tạo, sợ bị trở thành kẻ thua, nên tìm cách cản
trợ thay đổi, cố duy trì các thể chế khai thác, ưu tiên giữ ổn định chính trị,
giữ hiện trạng có lợi cho họ.
Tuy vậy, dưới các thể chế khai thác cũng có
thể có tăng trưởng. Đầu tiên, có tăng trưởng thì mới có của cải để khai thác.
Tăng trưởng dưới các thể chế khai thác chủ yếu diễn ra theo hai kiểu: chuyển nguồn
lực từ khu vực năng suất thấp (thí dụ nông nghiệp) sang khu vực có năng suất
cao hơn (công nghiệp hay dịch vụ, chẳng hạn); giới chóp bu có thể tự tin để tạo
ra các yếu tố bao gồm trong các thể chế kinh tế trong khi vẫn giữ các thể chế
chính trị khai thác.
Các thể chế kinh tế khai thác có thể tạo ra
tăng trưởng, nhưng không bền vững trong dài hạn và thường không tạo ra tăng
trưởng và vì thế dẫn đến nghèo khó.
Có ái lực mạnh (hay sự đồng vận) giữa các thể
chế chính trị bao gồm và các thể chế kinh tế bao gồm; cũng vậy đối với các thể
chế khai thác; chúng tăng cường lẫn nhau và tạo ra trạng thái ổn định tương
đối. Sự kết hợp của các thể chế chính trị khai thác với các thể chế kinh tế bao
gồm có thể tạo ra tăng trưởng, nhưng cuối cùng sẽ quay về hai trạng thái ổn
định hơn: hoặc các thể chế chính trị chuyển thành các thể chế bao gồm và quốc
gia phát triển mạnh, hay các thể chế kinh tế bao gồm bị thay thế bằng các thể
chế khai thác. Tương tự, trạng thái các thể chế chính trị bao gồm kết hợp với
các thể chế kinh tế khai thác cũng là trạng thái bất ổn định: các lực lượng
chính trị sẽ buộc các thể chế kinh tế trở nên bao gồm, hoặc bản thân các thể
chế chính trị bị biến thành khai thác.
Có thể phát triển một loại số đo tổng hợp,
theo kiểu như chỉ số HDI chẳng hạn, cho các thể chế chính trị và kinh tế. Có
thể gán, chẳng hạn chỉ số - 1 cho tập các thể chế tuyệt đối khai thác, và +1
cho tập các thể chế tuyệt đối bao gồm. Khi đó số đo của các thể chế chính
trị của một quốc gia có thể có giá trị từ (-1) đến (+1) và có thể được biểu
diễn như một điểm nào đó giữa (-1 và + 1), thí dụ trên trục tung (y). Tương tự
số đo của tập các thể chế kinh tế cũng lấy giá trị từ -1 đến +1 và có thể biểu
diễn thí dụ trên trục hoành (x) [ở sơ đồ dưới đây trục x chạy từ phải qua trái
hơi ngược với bình thường một chút].
Như thế ta có bốn ô trên mặt phẳng x-y: ô 1
trên cùng bên phải, ô 2 dưới cùng bên phải; ô 3 dưới bên trái; và ô 4 trên cùng
bên trái.
Tại mỗi thời điểm, mỗi quốc gia có một vị trí
ở một trong bốn ô này, và theo thời gian vị trí có thể dịch chuyển trong từng
ô, hay chuyển từ ô này sang ô kia. Sự dịch chuyển này vẽ lên một quỹ đạo thể
chế, và lịch sử thể chế đóng vai trò hết sức quan trọng trong lý thuyết của hai
tác giả này.
Rất nhiều quốc gia nằm ở ô 2 và họ thường
nghèo và vị trí càng gần góc dưới bên phải (-1,-1) thì càng nghèo; có một số
quốc gia ở ô 4 và họ thường giàu, các quốc gia có vị trí càng gần góc trên cùng
bên trái (+1,+1) thì càng giàu.
Hai ô 2 và 4 tương đối ổn định. Ô 2 gắn với
vòng luẩn quẩn. Ô 4 gắn với vòng thiện, và sự ổn định tại đây cũng chỉ tương
đối, nếu không giữ gìn vẫn có thể thụt lùi, như trường hợp Venice . Các ô 1 và 3 không ổn định theo nghĩa
các quốc gia nằm ở các ô này sớm muộn (tính bằng hàng chục năm) sẽ chuyển về ô
2 hay ô 4.
Phần cốt lõi thứ hai của lý thuyết là động học
của sự thay đổi thể chế. Các tác giả nhấn mạnh đến tầm quan trọng của: các xung
đột (conflict) luôn xảy ra trong xã hội; sự trôi dạt thể chế (institutional
drift), các thể chế ban đầu như nhau theo thời gian sẽ trôi dạt xa nhau; và tạo
ra những sự khác biệt nhỏ về thể chế nhưng các khác biệt nhỏ lại có thể quan
trọng trong các bước ngoặt; các bước ngoặt (critical juncture) là bất cứ sự
kiện lớn nào ảnh hưởng đến xã hội như tai họa thiên nhiên, dịch bệnh, khám phá
mới, hay các cuộc cách mạng, hay cái chết của một nhân vật quan trọng; và sự
tùy thuộc ngẫu nhiên (contingency). Các xung đột dẫn đến sự trôi dạt thể chế,
tại các bước ngoặt do những khác biệt nhỏ và sự tùy thuộc ngẫu nhiên chúng rẽ
nhánh theo những con đường rất khác nhau và tạo ra sự phân kỳ thể chế.
Lý thuyết về thay đổi thể chế cũng như sự đồng
vận của các thể chế (chính trị và kinh tế) bao gồm và sự đồng vận của các thể
chế khai thác là các công cụ hùng mạnh mà các tác giả dùng để tìm câu trả lời
cho câu hỏi đơn giản và hết sức cơ bản mà cuốn sách đặt ra: vì sao có một số
quốc gia giàu và nhiều quốc gia nghèo, vì sao các phương pháp xóa nghèo hiện
hành thường thất bại.
Các tác giả đưa bạn đọc chu du khắp thế giới,
từ châu Mỹ, Hoa Kỳ, đến châu Âu, châu Phi, châu Á, châu Đại Dương để tìm hiểu
vì sao ở nơi nào đó lại nghèo hay giàu, các lực lượng chính trị và kinh tế
tương tác với nhau ra sao và gây ra những thay đổi thể chế như thế nào và đưa
ra cách giải thích thuyết phục cho các hiện tượng đó, giúp bạn đọc hiểu trên cơ
sở của khung khổ lý thuyết này.
Tầm phủ thời gian của cuốn sách cũng thật ấn
tượng, từ cách mạng đồ đá mới đến 2011, nhưng chi tiết hơn là khoảng một ngàn
năm và nhất là từ 1800 đến nay.
Một lý thuyết khoa học luôn là các giả thuyết
và giá trị của một lý thuyết chỉ nằm trong sức mạnh giải thích (và tiên đoán,
nhưng trong các khoa học xã hội khó có thể nói về khả năng tiên đoán) của nó.
Muốn cho quốc gia không thất bại và giàu có
thì phải tìm mọi cách để xây dựng các thể chế chính trị bao gồm. Các tác giả nhấn
mạnh không có công thức sẵn có cho việc này. Tuy vậy có nhiều việc có thể tạo
thuận lợi, có thể thúc đẩy cho việc hình thành các thể chế chính trị như vậy.
Trao quyền (empowerment) cho nhân dân, hay cho các mảng rộng của xã hội là hết
sức quan trọng để cho một quá trình như vậy có thể hình thành hay mang lại kết
quả. Xây dựng nền pháp trị thực sự, với những ràng buộc lên các chính trị gia,
buộc họ phải có trách nhiệm giải trình và khó lạm dụng quyền lực. Người dân
biết quyền của mình và đòi một cách tích cực các quyền hiến định đó và tham gia
vào các tổ chức chính trị. Cần một nền báo chí tự do và quyền tự do ngôn luận.
Và như thế cần có một xã hội dân sự lành mạnh và sự tham dự tích cực của các
công dân. Đấy là cách làm giàu bền vững nhất không chỉ cho chính mình mà cho cả
con cháu nhiều đời sau.
Cuốn sách được viết rất sáng sủa và hết sức
dung dị, không đòi hỏi quá nhiều kiến thức kinh tế học từ bạn đọc. Theo tôi đây
là một công trình rất có giá trị và chắc chắn sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển nói chung và của sự phát triển kinh tế học nói riêng.
Tôi nghĩ đối tượng bạn đọc của cuốn sách này
sẽ rất rộng, từ các nhà kinh tế học, các nhà khoa học xã hội, các nhà hoạch
định chính sách, các chính trị gia, các nhà báo, sinh viên, học sinh thuộc tất
cả các ngành (chứ không chỉ các ngành xã hội) và bất cứ ai quan tâm khác đều
nên đọc cuốn sách này. Và họ sẽ không phí công vì nó giúp chúng ta hiểu thế
giới, hiểu chính mình và tự rút ra các bài học cho hành động thực tiễn.
Cảm ơn các ông Nguyễn Anh Tuấn và Vũ Văn Lê đã
tặng sách. Tôi đã hết sức cố gắng để truyền tải chính xác nội dung nhưng do
hiểu biết hạn chế nên bản dịch chắc chắn còn nhiều thiếu sót mong được bạn đọc
góp ý và lượng thứ.
Hà Nội, 4- 6-2012
Nguyễn Quang A
LỜI NÓI ĐẦU
Cuốn sách này là về những khác biệt khổng lồ
về thu nhập và mức sống mà tách biệt các nước giàu trên thế giới, như Hoa Kỳ,
Vương quốc Anh, và Đức, khỏi các nước nghèo, như các nước ở châu Phi hạ-Sahara,
Trung Mỹ và Nam Á.
Khi chúng tôi viết lời nói đầu này, Bắc Phi và
Trung Đông rung chuyển bởi “Mùa xuân Arab” khởi đầu bằng cái được gọi là Cách
mạng Hoa Nhài, mà ban đầu được châm ngòi bởi việc làm công chúng phẫn uất vì sự
tự thiêu của một người bán hàng rong, Mohamed Bouazizi, ngày 17-12-2010. Ngày
14-1-2011, Tổng thống Zine El Abidine Ben Ali, người đã cai trị Tunesia từ
1987, đã từ chức, nhưng nhiệt tình cách mạng chống lại sự cai trị của giới ưu
tú (elite) có đặc quyền ở Tunesia còn xa mới giảm bớt đi, đã trở nên mạnh hơn
và đã lan ra phần còn lại của Trung Đông. Hosni Mubarak, người đã cai trị Ai
Cập với một bàn tay siết chặt gần ba mươi năm, đã bị hất cẳng vào ngày
11-1-2011. Số phận của các chế độ ở Bahrain ,
Lybia , Syria
và Yemen
chưa được rõ khi chúng tôi hoàn tất lời nói đầu này.
Gốc rễ của sự bất mãn tại các nước này là ở sự
nghèo khó của chúng. Một người Ai Cập trung bình có mức thu nhập bằng khoảng 12
phần trăm của mức thu nhập của công dân Mỹ trung bình, và có thể kỳ vọng để
sống ngắn hơn mười năm; 20 phần trăm dân số sống trong cảnh cực kỳ nghèo. Tuy
những khác biệt này là đáng kể, chúng thực ra là khá nhỏ so với những sự khác
biệt giữa Hoa Kỳ và các nước nghèo nhất trên thế giới, như Bắc Triều Tiên,
Sierra Leone, và Zimbabwe, nơi hơn một nửa dân số sống trong nghèo khó.
Vì sao Ai Cập nghèo hơn Hoa Kỳ nhiều đến vậy?
Những ràng buộc nào kéo những người Ai Cập khỏi việc trở nên phát đạt hơn? Sự
nghèo của Ai Cập có là bất biến, hay có thể được xóa bỏ? Cách tự nhiên để bắt
đầu nghĩ về việc này là nghe bản thân những người Ai Cập nói về các vấn đề họ
đối mặt và vì sao họ lại đứng lên chống chế độ Mubarak. Noha Hamed, một người
hai mươi bốn tuổi, làm việc tại một hãng quảng cáo ở Cairo, đã làm rõ quan điểm
của mình khi cô biểu tình tại Quảng trường Tahrir: “Chúng tôi đã chịu sự tham
nhũng, sự áp bức, và nền giáo dục tồi. Chúng tôi sống giữa một hệ thống thối
nát mà phải thay đổi”. Một người khác trên quảng trường, Mosaab El Shami, hai
mươi tuổi, sinh viên dược, nhất trí: “Tôi hy vọng rằng vào cuối năm nay chúng
tôi sẽ có một chính phủ được bầu và rằng quyền tự do phổ quát được áp dụng và
rằng chúng ta chấm dứt nạn tham nhũng mà đã kiểm soát đất nước này”. Những
người biểu tình ở Quảng trường Tahrir đã nói cùng một tiếng nói về sự tham
nhũng của chính phủ, sự bất lực của nó để cung cấp các dịch vụ công, và sự
thiếu bình đẳng cơ hội ở nước họ. Họ đặc biệt than phiền về sự áp bức và sự
thiếu các quyền chính trị. Như Mohamed ElBaradei, nguyên giám đốc Cơ quan Năng
lượng Nguyên tử Quốc tế, đã viết trên Twitter ngày 13-1-2011, “Tunesia: áp bức
+ thiếu công lý xã hội + từ chối các kênh cho diễn biến hòa bình = một quả bom
nổ chậm đang kêu tích tắc”. Những người Ai Cập và Tunesia đều đã coi các vấn đề
kinh tế của họ cơ bản là do thiếu các quyền chính trị gây ra. Khi những người
biểu tình bắt đầu diễn đạt các đòi hỏi của họ một cách có hệ thống hơn, mười
hai đòi hỏi đầu tiên được post lên bởi Wael Khalil, một kỹ sự phần mềm và
blogger người đã nổi lên như một trong những nhà lãnh đạo của phong trào phản
kháng Ai Cập, đã đều tập trung vào sự thay đổi chính trị. Các vấn đề như tăng
lương tối thiểu đã xuất hiện chỉ giữa các đòi hỏi chuyển tiếp mà sẽ được thực
hiện muộn hơn.
Đối với những người Ai Cập, những cái, mà đã
néo giữ họ lại, bao gồm một nhà nước không hiệu quả và thối nát và một xã hội
nơi họ không thể sử dụng tài năng, khát vọng và sự khéo léo của mình và sự giáo
dục mà họ có thể có được. Nhưng họ cũng nhận ra gốc rễ của các vấn đề này là có
nguồn gốc chính trị. Tất cả những cản trở kinh tế mà họ đối mặt bắt nguồn từ
cách mà quyền lực chính trị được sử dụng và bị độc chiếm bởi một elite hẹp.
Đấy, họ hiểu, là cái đầu tiên phải thay đổi.
Thế nhưng, khi tin điều này, những người biểu
tình ở Quảng trường Tahrir đã bất đồng sâu sắc với sự sáng suốt thông thường về
chủ đề này. Khi lập luận, vì sao một nước như Ai Cập lại nghèo, hầu hết các học
giả và những người bình luận nhấn mạnh các yếu tố hoàn toàn khác. Một số người
nhấn mạnh sự nghèo của Ai Cập chủ yếu là do địa lý của nó quyết định, do sự
thực rằng đất nước này hầu như là một sa mạc và thiếu lượng mưa đầy đủ, và rằng
đất và khí hậu của nó không cho phép một nền nông nghiệp sinh lợi. Những người
khác thì chỉ ra các tính chất văn hóa của những người Ai Cập mà được cho là
không thuận cho sự phát triển và thịnh vượng kinh tế. Họ cho rằng những người
Ai Cập thiếu đúng loại phong cách làm việc và các đặc điểm văn hóa mà đã cho
phép các dân tộc khác phát đạt, và thay vào đó đã chấp nhận các niềm tin
Islamic không phù hợp với thành công kinh tế. Một cách tiếp cận thứ ba, cách
chiếm ưu thế giữa các nhà kinh tế học và các chuyên gia chính sách, lại dựa vào
ý niệm rằng các nhà cai trị của Ai Cập đơn giản đã không biết cái gì cần để làm
cho đất nước họ phồn thịnh, và đã đi theo các chính sách, các chiến lược sai
trong quá khứ. Nếu giá như các nhà cai trị này nhận được lời khuyên đúng từ các
cố vấn thích hợp, cách tư duy này tiếp tục, thì sẽ có sự thịnh vượng. Đối với
các học giả và chuyên gia chính sách ấy, sự thực rằng Ai Cập bị cai trị bởi
elite hẹp, chỉ thu vén cho bản thân họ gây tổn hại cho xã hội, có vẻ không liên
quan gì đến việc hiểu các vấn đề kinh tế của nước này.
Trong cuốn sách này chúng tôi sẽ biện luận
rằng những người Ai Cập ở Quảng trường Tahrir, chứ không phải hầu hết các học
giả và các nhà bình luận, đã có ý tưởng đúng. Thực ra, Ai Cập nghèo chính xác
bởi vì nó bị cai trị bởi elite hẹp, giới đã tổ chức xã hội vì lợi ích riêng của
họ gây tổn hại cho số rất đông quần chúng nhân dân. Quyền lực chính trị đã được
tập trung hẹp, và đã được sử dụng để tạo ra sự giàu có hết sức cho những kẻ nắm
quyền, như tài sản 70 tỷ USD có vẻ như đã được cựu Tổng thống Mubarak tích cóp.
Những người bị thua thiệt đã là nhân dân Ai Cập, như họ hiểu rất rõ [điều đó].
Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng sự giải thích này về
sự nghèo của Ai Cập, sự giải thích của nhân dân, hóa ra cung cấp một sự giải
thích chung cho câu hỏi vì sao các nước nghèo lại nghèo. Bất luận đó là Bắc
Triều Tiên, Sierra Leone ,
hay Zimbabwe ,
chúng ta sẽ chứng tỏ rằng các nước nghèo là nghèo vì chính xác cùng lý do mà Ai
Cập nghèo. Các nước như Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đã trở nên giàu bởi vì các
công dân của họ đã lật đổ elite, giới đã kiểm soát quyền lực, và đã tạo ra một
xã hội nơi các quyền chính trị được phân phát rộng rãi hơn nhiều, nơi các chính
phủ có trách nhiệm giải trình và có trách nhiệm với công dân, và nơi số đông
quần chúng nhân dân có thể tận dụng các cơ hội kinh tế. Chúng ta sẽ chứng tỏ
rằng để hiểu vì sao có sự bất bình đẳng như vậy trong thế giới ngày nay, chúng
ta phải đào sâu vào quá khứ và nghiên cứu động học lịch sử của các xã hội.
Chúng ta sẽ thấy rằng lý do mà Vương quốc Anh giàu hơn Ai Cập là bởi vì năm
1688, Vương quốc Anh (hay nước Anh, để cho chính xác) đã có một cuộc cách mạng
mà đã biến đổi hoạt động chính trị và như thế hoạt động kinh tế của quốc gia.
Nhân dân đã chiến đấu vì và đã giành được nhiều quyền chính trị hơn, và họ đã
dùng chúng để mở rộng các cơ hội kinh tế của họ. Kết quả đã là một quỹ đạo
chính trị và kinh tế khác một cách căn bản, lên đỉnh điểm trong Cách mạng Công
nghiệp.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp và các công nghệ mà
nó mở ra đã không lan sang Ai Cập, vì nước đó đã nằm dưới sự kiểm soát của Đế
chế Ottoman, mà đã đối xử với Ai Cập phần nào theo cùng cách như gia đình
Mubarak sau này đã đối xử. Sự cai trị Ottoman ở Ai Cập đã bị Napoleon Bonaparte
lật đổ năm 1798, nhưng sau đó mước này rơi vào sự kiểm soát của chủ nghĩa thực
dân Anh, mà cũng như Ottoman đã ít quan tâm đến việc thúc đẩy sự thịnh vượng
của Ai Cập. Tuy những người Ai Cập đã thoát khỏi được các đế chế Ottoman và
Anh, và, năm 1952, đã lật đổ chế độ quân chủ của họ, nhưng đấy đã không phải là
các cuộc cách mạng như cách mạng 1688 ở Anh, và thay cho việc biến đổi căn bản
hoạt động chính trị ở Ai Cập, chúng lại đưa một elite khác lên nắm quyền, giới
cũng chẳng quan tâm đến việc đạt được sự thịnh vượng cho những người dân thường
Ai Cập [hệt] như những người Ottoman và Anh đã chẳng quan tâm. Hậu quả là, cấu
trúc cơ bản của xã hội đã không thay đổi và Ai Cập vẫn nghèo.
Trong cuốn sách này chúng ta sẽ nghiên cứu các
hình mẫu này tái tạo mình ra sao theo thời gian và vì sao đôi khi chúng thay
đổi như chúng đã thay đổi ở Anh năm 1688 và ở Pháp với cách mạng 1789. Việc này
sẽ giúp chúng ta hiểu liệu tình hình ở Ai Cập đã thay đổi hiện nay và liệu cuộc
cách mạng đã lật đổ Mubarak sẽ có dẫn đến một tập mới của các thể chế có khả
năng mang lại sự thịnh vượng cho những người Ai Cập bình thường hay không. Ai
Cập đã có các cuộc cách mạng trong quá khứ mà đã không làm thay đổi tình hình,
bởi vì những người tổ chức các cuộc cách mạng đơn giản đã nắm lấy giây cương từ
những người mà họ phế truất và đã tạo dựng lại một hệ thống tương tự. Quả thực
là khó đối với các công dân bình thường để nắm lấy quyền lực chính trị thực và
thay đổi cách xã hội của họ vận hành. Nhưng là có thể, và chúng ta sẽ xem việc
này diễn ra thế nào ở Anh, Pháp, Hoa Kỳ, và cả ở Nhật Bản, Botswana, và Brazil.
Về căn bản chính một sự biến đổi chính trị thuộc loại này là cái cần cho một xã
hội nghèo trở thành giàu. Có bằng chứng rằng điều này có thể đang xảy ra ở Ai
Cập. Reda Metwaly, một người biểu tình khác ở Quảng trường Tahrir, lập luận,
“Bây giờ bạn thấy những người Muslim và những người Ki tô giáo cùng nhau, bây
giờ bạn thấy người già và người trẻ cùng nhau, tất cả đều muốn cùng một thứ”.
Chúng ta sẽ thấy rằng một phong trào rộng như vậy trong xã hội đã là một phần
then chốt của cái đã xảy ra trong những biến đổi chính trị khác này. Nếu chúng
ta hiểu khi nào và vì sao những sự chuyển đổi như thế xảy ra, chúng ta sẽ ở vị
thế tốt hơn để đánh giá khi nào chúng ta kỳ vọng các phong trào như vậy thất
bại như chúng đã thường thất bại trong quá khứ và khi nào chúng ta có thể hy
vọng rằng chúng sẽ thành công và cải thiện cuộc sống của hàng triệu người.
1. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU
NỀN
KINH TẾ CỦA RIO GRANDE
THÀNH PHỐ NOGALES bị cắt đôi bởi một hàng rào. Nếu bạn đứng
cạnh nó và nhìn theo hướng bắc, bạn sẽ thấy Nogales , Arizona ,
nằm ở Quận Santa Cruz. Thu nhập của hộ gia đình trung bình ở đó là khoảng
30.000 USD một năm. Hầu hết trẻ vị thành niên ở trường học, và đa số những
người lớn là những người đã tốt nghiệp trung học. Bất chấp những tranh luận mà
người dân đưa ra về hệ thống chăm sóc sức khỏe Mỹ thiếu sót đến thế nào, dân
chúng tương đối khỏe mạnh, với ước tính tuổi thọ cao theo tiêu chuẩn toàn cầu.
Nhiều cư dân trên tuổi sáu mươi lăm và có tiếp cận đến Medicare (Chăm sóc y
tế). Đó chỉ là một trong nhiều dịch vụ do chính phủ cung cấp mà hầu hết được
coi là nghiễm nhiên, như điện, điện thoại, hệ thống thoát nước, chăm sóc sức
khỏe cộng đồng, mạng lưới đường kết nối họ với các thành phố khác trong vùng và
với phần còn lại của Hoa Kỳ, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, luật
pháp và trật tự. Nhân dân Nogales, Arizona, có thể tiến hành các hoạt động hàng
ngày của họ mà không có sự sợ hãi về đời sống hay sự an toàn và không phải liên
tục sợ trộm cắp, sự tước đoạt, hay những thứ khác có thể gây nguy hiểm cho các
khoản đầu tư của họ trong các doanh nghiệp và nhà của họ. Quan trọng ngang thế
là, người dân Nogales, Arizona, coi là nghiễm nhiên rằng chính phủ, với tất cả
sự không hiệu quả và đôi khi tham nhũng của nó, là người đại diện của họ. Họ có
thể bỏ phiếu để thay thị trưởng, các thượng và hạ nghị sỹ của họ; họ bỏ phiếu
trong các cuộc bầu tổng thống để xác định ai sẽ lãnh đạo nước họ. Dân chủ là
bản chất thứ hai của họ.
Cuộc sống ở phía nam hàng rào, chỉ cách vài
mét, là khá khác. Trong khi cư dân của Nogales, Sonora, sống trong một phần
tương đối thịnh vượng của Mexico, thu nhập của hộ gia đình trung bình ở đó bằng
khoảng một phần ba của thu nhập ở Nogales, Arizona. Hầu hết người lớn ở Nogales , Sonora ,
không tốt nghiệp trung học, và nhiều trẻ vị thành niên không đến trường. Các bà
mẹ phải lo về tỷ lệ tử vong trẻ em cao. Điều kiện chăm sóc sức khỏe công cộng
nghèo nàn cho thấy không có gì ngạc nhiên rằng dân cư của Nogales , Sonora ,
không sống lâu như các láng giềng phía bắc của họ. Họ không tiếp cận được đến
nhiều tiện nghi công cộng. Đường sá trong tình trạng tồi tàn ở phía nam hàng
rào. Luật pháp và trật tự trong tình trạng tồi tệ hơn. Tội phạm cao, và mở một
doanh nghiệp là một hoạt động rủi ro. Không phải chỉ là bạn có rủi ro bị cướp, mà
lấy được tất cả các giấy phép và bôi trơn mọi bàn tay chỉ để mở là nỗ lực không
dễ dàng. Dân cư Nogales , Sonora , sống với sự tham nhũng và sự vụng về
của các nhà chính trị hàng ngày.
Ngược với các láng giềng phương bắc của họ,
dân chủ là một trải nghiệm rất mới đây đối với họ. Cho đến các cuộc cải cách
năm 2000, Nogales , Sonora ,
hệt như phần còn lại của Mexico ,
đã nằm dưới sự kiểm soát thối nát của Đảng Cách mạng Thể chế, hay Partido
Revolucionario Institucional (PRI).
Làm sao mà hai nửa của cái về cơ bản là cùng
một thành phố lại khác nhau đến vậy? Không có sự khác biệt nào về địa lý, khí
hậu, hay những loại bệnh phổ biến trong vùng này, vì các vi trùng không đối mặt
với bất cứ hạn chế nào khi qua lại giữa Hoa Kỳ và Mexico. Tất nhiên, các điều
kiện y tế là rất khác nhau, nhưng điều này chẳng liên quan gì đến môi trường
bệnh tật; đó là bởi vì nhân dân ở phía nam biên giới sống với các điều kiện vệ
sinh thấp kém và thiếu sự chăm sóc sức khỏe tử tế.
Nhưng có lẽ người dân là rất khác nhau. Có thể
chăng, cư dân của Nogales , Arizona , là con cháu của những người nhập cư
từ châu Âu, còn những người ở phía nam là con cháu của những người Aztec? Không
phải vậy. Nguồn gốc của người dân ở cả hai bên biên giới là khá giống nhau. Sau
khi Mexico trở nên độc lập từ Tây Ban Nha năm 1821, vùng xung quanh “Los dos
Nogales” đã là một phần của nhà nước Mexic Vieja California và vẫn thế ngay cả
sau Chiến tranh Mexic-Mỹ 1846-1848. Quả thực, chỉ sau [Thỏa thuận] Gadesden Mua
năm 1853 mà biên giới Hoa Kỳ mới được mở rộng ra vùng này. Trung úy N. Michler
là người, trong khi khảo sát biên giới, đã ghi nhận sự hiện diện của “thung
lũng Los Nogales nhỏ xinh xắn”. Ở đây, ở cả hai bên biên giới, hai thành phố đã
mọc lên. Các cư dân của Nogales , Arizona , và Nogales ,
Sonora , có chung tổ tiên, thưởng
thức cùng loại thức ăn và âm nhạc, và, chúng ta bạo gan để nói có cùng “văn
hóa”.
Tất nhiên, có một giải thích rất đơn giản và
rõ ràng cho những sự khác biệt giữa hai nửa của Nogales mà bạn có lẽ đã đoán từ lâu: chính là
cái biên giới xác định hai nửa. Nogales, Arizona, là ở Hoa Kỳ. Các cư dân của
nó được tiếp cận đến các thể chế kinh tế của Hoa Kỳ, mà cho phép họ lựa chọn
nghề của mình một cách tự do, có được sự học hành và các kỹ năng, và khuyến
khích những người sử dụng lao động của họ đầu tư vào công nghệ tốt nhất, dẫn
đến lương cao hơn cho họ. Họ cũng được tiếp cận đến các thể chế chính trị cho
phép họ tham gia vào các quá trình dân chủ, để bầu các đại diện của họ và thay
thế chúng nếu chúng cư xử tồi. Hệ quả là, các chính trị gia cung cấp các dịch
vụ cơ bản mà công dân đòi hỏi (từ chăm sóc sức khỏe công cộng, đến đường sá,
luật pháp và trật tự). Những công dân của Nogales ,
Sonora , không may mắn như vậy. Họ
sống trong một thế giới khác được định hình bởi các thể chế khác. Các thể chế
khác nhau này tạo ra những khuyến khích rất khác nhau cho cư dân của hai Nogales và cho các doanh
nhân và doanh nghiệp muốn đầu tư ở đó. Những khuyến khích được tạo ra bởi các
thể chế khác nhau của [hai] Nogales
và của hai nước tương ứng là lý do chính cho những khác biệt về sự thịnh vượng
kinh tế ở hai bên biên giới.
Vì sao các thể chế của Hoa Kỳ lại thuận lợi
hơn rất nhiều cho thành công kinh tế so với các thể chế của Mexico , và cũng
thế của cả phần còn lại của Mỹ Latin? Câu trả lời cho câu hỏi này nằm ở cách mà
các xã hội đã hình thành vào đầu thời kỳ thực dân. Một sự phân kỳ thể chế đã
xảy ra khi đó, với những tác động kéo dài cho đến ngày nay. Để hiểu sự phân kỳ
này chúng ta phải bắt đầu ngay ở việc thiết lập các thuộc địa tại Bắc Mỹ và Mỹ
Latin.
SỰ THÀNH LẬP BUENOS AIRES
Đầu năm 1516, Juan Díaz de Solís, hoa tiêu Tây
Ban Nha, đã đi thuyền vào một cửa sông rộng ở Bãi biển phía Đông của Nam Mỹ.
Lội lên bờ, de Solís nhận đất này cho Tây Ban Nha, đặt tên sông là Riso de la
Plata, “Sông Bạc”, bởi vì dân địa phương có bạc. Dân bản địa ở hai bên cửa sông
– người Charrúas ở nơi bây giờ là Urugay, và người Querandí trên các đồng bằng
được biết đến như Pampas ở Argentina hiện đại – đã coi những kẻ mới đến với sự
thù địch. Dân địa phương này đã là những người săn bắt-hái lượm sống trong các
nhóm nhỏ mà không có quyền uy chính trị tập trung mạnh. Thật vậy, chính đã là
một nhóm Charrúas như vậy đã đánh de Solís bằng gậy cho đến chết khi ông khám
phá các vùng mới mà ông đã thử để chiếm cho Tây Ban Nha.
Năm 1534, người Tây Ban Nha, vẫn lạc quan, đã
gửi một đoàn đầu tiên của những người định cư từ Tây Ban Nha dưới sự lãnh đạo
của Pedro de Mendoza. Họ đã lập một thị trấn ở Buenos Aires trong cùng năm. Nó đã phải là
một nơi lý tưởng cho những người Âu châu. Buenos
Aires , theo nghĩa đen là “không khí trong lành”, đã có
một khí hậu ôn hòa, dễ chịu. Thế nhưng cuộc lưu lại đầu tiên của những người
Tây Ban Nha ở đó đã ngắn. Họ đã không đi tìm không khí trong lành, mà là tìm
tài nguyên để khai thác và lao động để cưỡng bức. Tuy vậy, những người Charrúas
và Querandí đã không sốt sắng giúp đỡ. Họ đã từ chối cung cấp thức ăn cho người
Tây Ban Nha, từ chối làm việc khi bị bắt. Họ đã tấn công vùng định cư mới bằng
cung và mũi tên của mình. Những người Tây Ban Nha bị đói, vì họ đã không lường
trước rằng phải tự lo thức ăn cho mình. Buenos
Aires đã không phải là cái họ mơ tới. Đã không thể ép
buộc dân địa phương để cung cấp lao động. Vùng này đã không có bạc hay vàng để
khai thác, và bạc mà de Solís đã thấy thực ra đến suốt lộ trình từ nhà nước
Inca trong vùng Andes , xa xôi về phía tây.
Những người Tây Ban Nha, trong khi cố sống
sót, đã bắt đầu gửi các toán thám hiểm để tìm chỗ mới giàu có hơn và có nhiều
dân hơn để dễ cưỡng bức hơn. Năm 1537, một trong các toán thám hiểm này, dưới
sự lãnh đạo của Juan de Ayolas, đã thâm nhập ngược Sông Paraná, tìm đường đến
những người Inca. Trên đường, nó đã tiếp xúc với người Guaraní, một tộc người
tĩnh tại với một nền kinh tế nông nghiệp dựa vào ngô và sắn. De Ayolas ngay lập
tức nhận ra rằng người Guaraní là một vấn đề hoàn toàn khác với người Charrúas
và Querandí. Sau một xung đột ngắn, những người Tây Ban Nha đã vượt qua sự
kháng cự Guaraní và đã thành lập một thị trấn, Nuestra Señora de Santa María de
la Asunción, mà vẫn là thủ đô của Paraguay ngày nay. Những người Tây Ban Nha
xâm chiếm đã lấy các công chúa Guaraní làm vợ và nhanh chóng tự phong mình làm
một tầng lớp quý tộc mới. Họ đã thích nghi hệ thống lao động cưỡng bức và cống
nạp của người Guaraní, với bản thân họ ở địa vị lãnh đạo. Đấy là loại thuộc địa
mà họ đã muốn thiết lập, và trong vòng bốn năm Buenos Aires đã bị bỏ vì tất cả
những người Tây Ban Nha định cư ở đó đã chuyển đến thị trấn mới.
TỪ CAJAMARCA…
Các cuộc thám hiểm của de Solís, de Mendoza, và de Ayolas đến sau các
cuộc thám hiểm nổi tiếng hơn tiếp sau việc Christopher Columbus nhìn thấy một
trong các đảo của Bahamas
ngày 12-10-1492. Người Tây Ban Nha bắt đầu bành trướng và thuộc địa hóa châu Mỹ
một cách dồn dập với việc Hernán Cortés xâm chiếm Mexico năm 1519, cuộc thám
hiểm của Francisco Pizzaro đến Peru một thập niên rưỡi sau đó, và cuộc thám
hiểm của Pedro Mendoza đến Riso de la Plata đúng hai năm sau đó. Trong thế kỷ tiếp theo, Tây Ban Nha đã chinh phục và
thuộc địa hóa hầu hết trung, tây, và nam Nam Mỹ, còn Bồ Đào Nha đòi Brazil đến
phía đông.
Newport căng buồm một lần nữa về Anh, vào tháng
12-1608. Ông đã mang theo mình một lá thư do Smith viết cầu xin các giám đốc
của Công ty Virginia
thay đổi cách nghĩ của họ về thuộc địa. Đã không có khả năng về một sự khai
thác trở-nên-giàu-nhanh của Virginia theo đường lối của Mexico và Peru . Đã không có vàng hay kim loại
quý, và đã không thể cưỡng bức người dân bản địa để làm việc hay để cung cấp
thực phẩm. Smith đã nhận ra rằng nếu muốn có một thuộc địa có thể đứng vững
được, thì chính các nhà thuộc địa là những người phải làm việc. Vì thế ông đã
cầu xin các giám đốc gửi những loại người phù hợp: “Khi các ngài gửi lần nữa
tôi van xin các ngài hãy gửi khoảng ba mươi thợ mộc, cặp vợ chồng, những người
làm vườn, những người đánh cá, các thợ rèn, các thợ nề, và những người đào cây,
rễ cây, được chu cấp tốt, rồi cả ngàn người như thế khi chúng ta có.”
Baltimore đã thảo một kế hoạch chi tiết để tạo ra một
xã hội thái ấp, một biến thể Bắc Mỹ của một phiên bản được lý tưởng hóa của
nước Anh thôn quê thế kỷ mười bảy. Nó đòi hỏi việc chia đất thành các lô hàng
ngàn mẫu, mà sẽ được các lord (chúa) vận hành. Các chúa sẽ tuyển mộ những người
thuê, những người sẽ canh tác đất và nộp tô (tiền thuê) cho elite có đặc quyền
và đang kiểm soát đất. Một nỗ lực tương tự đã được đưa ra muộn hơn trong năm
1663, với việc thành lập Carolina
bởi tám chủ sở hữu, kể cả Sir Anthony Ashley-Cooper. Ashley-Cooper cùng với thư
ký của mình, nhà triết học Anh vĩ đại John Locke, đã trình bày Hiến pháp Cơ bản
của Carolina .
Tài liệu này, giống Hiến chương Maryland trước nó, đã cung cấp một kế hoạch chi
tiết cho một xã hội tinh hoa chủ nghĩa, có thứ bậc dựa trên sự kiểm soát bởi
một elite có nhiều đất đai. Lời mở đầu ghi rằng “chính phủ của tỉnh này có thể
trở nên thích hợp nhất với nền quân chủ mà dưới đó chúng ta sống mà tỉnh này là
một phần; và rằng chúng ta có thể tránh được việc dựng lên một nền dân chủ đông
đảo”.
Chiến lược thực dân hóa của Tây Ban Nha đã rất
hiệu quả. Đầu tiên được hoàn thiện bởi Cortés ở Mexico, nó dựa vào sự quan sát
rằng cách tốt nhất cho người Tây Ban Nha để khuất phục sự chống đối đã là bắt
lãnh tụ bản địa. Chiến lược này đã cho phép người Tây Ban Nha cướp của cải của
lãnh tụ và cưỡng bức dân bản địa cống nạp và cung cấp thức ăn. Bước tiếp theo
đã là tự phong mình làm elite mới của xã hội bản địa và nắm quyền kiểm soát các
phương pháp hiện tồn về đánh thuế, cống nạp, và đặc biệt, lao động cưỡng bức.
Khi Cortés và những người của ông ta đến thủ
đô của đại Aztec, Tenochtitlan, ngày 8-11-1519, họ được hoan nghênh bởi
Moctezuma, hoàng đế Aztec, người, mặc dù có nhiều lời khuyên từ các cố vấn của
ngài, đã quyết định tiếp đón những người Tây Ban Nha một cách hữu hảo. Cái gì
xảy ra tiếp sau đã được mô tả kỹ trong tường thuật được biên soạn sau năm 1545
bởi thầy tu dòng Franciscan, Bernardino de Saghagún, trong bộ sách Florentine
Codices nổi tiếng của ông.
Ngay lập lức họ [những người Tây Ban Nha] đã
túm chặt lấy Moctezuma … rồi sau đó từng khẩu súng bắn lên trời … Sự sợ hãi bao
trùm. Mọi người vãi linh hồn. Ngay cả trước khi trời tối, đã có sự kinh hãi, sự
kinh ngạc, sự e sợ, mọi người choáng váng.
Và khi trời rạng sáng ngay lúc ấy lộ ra tất cả
các thứ [mà những người Tây Ban Nha] đòi hỏi: bánh mỳ trắng làm bằng ngô, gà
tây nướng, trứng, nước sạch, gỗ, củi, than … Đấy đã là những thứ Moctezuma quả
thực đã ra lệnh.
Và khi những người Tây Ban Nha đã ổn định
xong, ngay lúc ấy họ đã dò hỏi Moctezuma về tất cả kho báu của thành phố … họ
đã tìm vàng với sự sốt sắng lớn. Và ngay lúc ấy Moctezuma đã dẫn những người
Tây Ban Nha. Họ đã đi bao quanh ông … mỗi người giữ ông, mỗi người túm lấy ông.
Và khi họ đến nhà kho, một nơi được gọi là
Teocalco, ngay lúc ấy họ đưa ra tất cả những thứ lóng lánh; quạt đầu lông chim
quaetzal, các dụng cụ, các huy hiệu, các đĩa vàng … các hình lưỡi liềm vàng,
các đai [vòng đeo] chân vàng, các đai tay vàng, các đai trán vàng.
Ngay lúc ấy vàng được tách ra … ngay lập tức
họ châm lửa, làm cho tất cả các thứ quý giá ấy … bốc cháy. Chúng bị đốt hết. Và
những người Tây Ban Nha đúc vàng thành các thỏi tách biệt … Và người Tây Ban
Nha đi khắp mọi nơi … Họ tìm mọi thứ, mọi thứ mà họ thấy là tốt.
Ngay lúc ấy họ đi đến nhà kho riêng của Moctezuma
… ở nơi được gọi là Totocalco … họ lôi ra các tài sản riêng [của Moctezuma] …
tất cả các thứ quý giá; các vòng cổ với các tua tòn ten, các đai tay với các
túm lông chim quaetzal, các đai tay bằng vàng, các vòng đeo tay, các đai bằng
vàng với vỏ sò … và vương miện ngọc lam, biểu tượng của người cai trị. Họ lấy
hết.
Việc chinh phục những người Aztec bằng quân sự
đã hoàn tất vào năm 1521. Cortés, với tư cách thống đốc của tỉnh Tây Ban Nha
Mới, khi đó đã bắt đầu phân chia tài nguyên quý giá nhất, dân cư bản địa, thông
qua thể chếencomienda. Hệ thống
điều tiết lao động encomienda đã xuất hiện đầu tiên ở Tây Ban
Nha thế kỷ thứ mười lăm như một phần của việc tái chiếm miền nam nước này từ
tay những người Moor, Arab, những người đã định cư trong và sau thế kỷ thứ tám.
Ở Thế giới Mới nó đã có dạng độc hại hơn nhiều: nó đã là việc cấp những người
bản địa cho một người Tây Ban Nha, được biết đến như encomandero.
Những người bản địa phải cống nạp và lao dịch cho encomandero,
đổi lại các dịch vụ đó encomandero có trách nhiệm cải đạo họ sang Ki tô
giáo.
Một tường thuật ban đầu sống động về hoạt động
của encomienda đã
đến với chúng ta từ Bartolomé de la Casas, một thầy tu dòng Dominican, người đã
trình bày sự phê phán sớm nhất và là một trong những phê phán gây ấn tượng (có
tính tàn phá) nhất về hệ thống thuộc địa Tây Ban Nha. De la Casas đã đến hòn
đảo Tây Ban Nha, Hispaniola, năm 1502 với một đội tàu do thống đốc mới, Nicolás
de Ovando, đứng đầu. Ông ngày càng trở nên vỡ mộng và bối rối bởi sự cư xử tàn
ác và bóc lột đối với người bản địa mà ông chứng kiến hàng ngày. Với tư cách
cha tuyên úy ông đã tham gia vào cuộc Tây Ban Nha xâm chiếm Cuba năm 1513,
thậm chí được cấp một encomienda cho ông sử dụng. Tuy vậy, ông đã từ bỏ
quyền được cấp và đã bắt đầu một cuộc vận động dài để cải cách các thể chế
thuộc địa Tây Ban Nha. Các nỗ lực của ông đã đạt đỉnh cao trong cuốn sách của
ông, A Short Account of the Destruction of the Indies (Một Tường thuật Ngắn
về sự Phá hủy Indies), được
viết năm 1542, một sự tấn công khinh miệt lên tính dã man của sự cai trị Tây
Ban Nha. Về encomienda ông đã có điều này để nói trong trường
hợp của Nicaragua :
Mỗi người định cư đã bắt cư dân trong thị trấn
được phân cho ông ta (hay được giao cho [encommanded] ông ta, như cách diễn đạt
pháp lý), bắt các cư dân làm việc cho mình, ăn cắp thực phẩm hiếm hoi của họ
cho chính mình và chiếm đất mà những người bản địa đã sở hữu và đã canh tác mà
trên đó họ đã nuôi trồng sản phẩm của họ theo truyền thống. Người định cư đối
xử với toàn bộ dân cư bản địa – những người quyền cao chức trọng, các ông già,
đàn bà và trẻ con – như các thành viên của hộ gia đình mình, và với tư cách như
thế, bắt họ làm việc tối ngày vì lợi ích riêng của ông ta, mà không có bất cứ
sự nghỉ ngơi nào.
Về cuộc chinh phục New Granada, Columbia hiện
đại, de la Casas kể lại toàn bộ chiến lược Tây Ban Nha trong hành động:
Để thực hiện các mục đích dài hạn về chiếm
đoạt tất cả số vàng sẵn có, những người Tây Ban Nha đã áp dụng chiến lược thông
thường của họ về chia các thị trấn và dân cư của chúng thành từng phần giữa họ
với nhau (hay giao cho, như họ bảo thế) … và sau đó, như từ trước đến giờ, đối
xử với họ như các nô lệ thông thường. Người chỉ huy toàn bộ cuộc thám hiểm
chiếm lấy Vua của toàn vùng lãnh thổ cho chính mình và giữ ông ta như tù binh
trong sáu hay bảy tháng, đòi nhiều và nhiều hơn vàng và ngọc lục bảo từ ông ta
một cách hoàn toàn trái phép. Nhà Vua này, một Bogotá, đã khiếp sợ đến mức, vì
sự nóng lòng của ông để được giải thoát khỏi nanh vuốt của những kẻ gây đau khổ
cho mình, ông đã đồng ý với đòi hỏi rằng ông sẽ chất vàng đầy một nhà và trao
cho họ; để đạt mục đích này ông đã gửi người của mình đi tìm vàng, và từng tí
một họ đã mang về nhiều đá quý. Nhưng ngôi nhà vẫn chưa đầy và cuối cùng những
người Tây Ban Nha đã tuyên bố rằng họ sẽ giết ông vì sự thất hứa. Người chỉ huy
đã gợi ý họ phải đưa ông ra xử trước mặt hắn, với tư cách người đại diện của
luật pháp, và khi họ đã làm như thế, đệ trình cáo trạng chống lại nhà Vua, hắn
đã kết án ông sẽ bị tra tấn nếu ông vẫn khăng khăng không thực hiện lời hứa đã
được thương lượng. Họ đã tra tấn ông bằng cách treo ông lên cao, đặt miếng mỡ
đang cháy lên bụng ông, trói cả hai chân ông vào hai cọc với các đai sắt và cổ
ông vào cái khác và sau đó, với hai người cầm các tay ông, họ tiến hành đốt gan
bàn chân ông. Thỉnh thoảng, viên chỉ huy ngó tới và lặp lại rằng họ sẽ tra tấn
ông đến chết một cách từ từ trừ phi ông mang lại nhiều vàng hơn, và đấy là cái
họ đã làm, nhà Vua cuối cùng đã không chịu nổi những sự đau đớn mà họ đã gây ra
cho ông.
Chiến lược và các thể chế chinh phục được hoàn
thiện ở Mexico
đã được chấp nhận một cách háo hức ở những nơi khác trong Đế chế Tây Ban Nha.
Không ở đâu việc này được làm một cách hiệu quả hơn việc Pizzaro chinh phục Peru . Như de
las Casas bắt đầu tường thuật của ông:
Vào năm 1531 một tên đại lưu manh khác với một
số người đã có cuộc hành trình đến vương quốc Peru . Với quyết tâm và ý định rõ
rệt, hắn bắt tay vào việc bắt chước chiến lược và chiến thuật của các đồng bọn
phiêu lưu của hắn ở các phần khác của Thế giới Mới.
Pizzaro đã bắt đầu trên bờ biển cạnh thị trấn
Tumbes của Peru
và tiến về phía nam. Ngày 15-11-1532, ông đến thị trấn vùng núi Cajarmarca, nơi
hoàng đế Inca, Atahualpa, đã cắm trại với quân đội của ngài. Ngày hôm sau,
Atahualpa, người vừa thắng anh trai Huáscar của mình trong cuộc tranh đua ai sẽ
kế vị người cha mới chết của họ, Huayna Capac, đã cùng đoàn tùy tùng của mình
đến nơi những người Tây Ban Nha cắm trại. Atahualpa đã phát cáu bởi vì tin tức
về những hành động tàn bạo mà những người Tây Ban Nha đã gây ra, như xúc phạm
đền thờ Thần Mặt trời Inti, đã đến với ngài. Những gì đã xảy ra sau đó là điều
nhiều người biết. Người Tây Ban Nha đã đặt một cái bẫy và bật bẫy lên. Họ đã
giết những người bảo vệ và người hầu của Atahualpa, có lẽ nhiều đến hai ngàn
người, và đã bắt giữ ông. Để được tự do, Atahualpa đã hứa chất vàng đầy một
phòng và chất bạc đầy thêm hai phòng nữa có cùng kích thước. Ông đã thực hiện
việc này, nhưng những người Tây Ban Nha, không giữ lời hứa của họ, đã treo cổ
ông vào tháng Bảy 1533. Tháng Mười một năm ấy những người Tây Ban Nha chiếm
được thủ đô Inca, Cusco, nơi giới quý tộc Inca đã bị đối xử như Atahualpa đã
bị, bị tống giam cho đến khi họ mang vàng và bạc lại. Khi họ không thỏa mãn các
đòi hỏi của người Tây Ban Nha, họ bị thiêu sống. Những báu vật nghệ thuật tuyệt
vời của Cusco, như Đền thờ Mặt trời, bị lột mất những phần bằng vàng của chúng
và vàng được nấu chảy để đúc thành các thỏi.
Tại điểm này những người Tây Ban Nha chú tâm
vào người dân của Đế chế Inca. Như ở Mexico , các công dân đã được chia
thành các encomienda, với mỗi encomienda được phân cho mỗi kẻ chinh phục người
đã đi cùng Pizzaro. Encomienda đã là thể chế chủ yếu được dùng
cho việc kiểm soát và tổ chức lao động trong thời gian đầu của thời kỳ thuộc
địa, nhưng mau chóng đã đối mặt với một đấu thủ mạnh mẽ. Năm 1545, một người
địa phương có tên Diego Gualpa đang tìm một điện thờ bản địa cao ở Andes, trong
vùng là Bolivia
ngày nay. Một cơn giói mạnh bất ngờ đã hất ông xuống đất và trước mặt ông xuất
hiện một nơi trữ quặng bạc. Đấy là một phần của một hòn núi bạc mênh mông, mà
những người Tây Ban Nha đã đặt tên là El Cerro Rico, “Núi Giàu”. Xung quanh nó
đã mọc lên thành phố Potosí, mà ở đỉnh cao của nó trong năm 1650 đã có số dân
160.000 người, lớn hơn Lisbon hay Venice trong thời kỳ ấy.
Để khai thác bạc, những người Tây Ban Nha cần
các thợ mỏ – rất nhiều thợ mỏ. Họ đã phái một phó vương, quan chức chính của
thuộc địa Tây Ban Nha, Francisco de Toledo, mà sứ mệnh chính của ông đã là để
giải quyết vấn đề lao động. De Toledo, đến Peru năm 1569, đầu tiên đã dùng năm
năm du hành khắp nơi và tìm hiểu nhiệm vụ mới của ông. Ông cũng đã giao tiến
hành một cuộc điều tra đồ sộ về toàn bộ dân cư trưởng thành. Để tìm được lao
động mà ông cần, đầu tiên de Toledo đã di chuyển toàn bộ dân cư bản địa, tập
trung họ vào các thị trấn mới được gọi là các reduccion – nghĩa đen là những “sự rút bớt” – mà
sẽ tạo thuận lợi cho việc khai thác lao động bởi Quốc vương Tây Ban Nha. Sau đó
ông đã phục hồi và phỏng theo một thể chế lao động Inca được gọi là mita,
mà, theo ngôn ngữ Inca, Quechua, có nghĩa là “a turn – một phiên”. Dưới hệ
thống mitacủa họ, những người Inca đã sử dụng lao động cưỡng bức
để vận hành các đồn điền được trù tính để cung cấp thực phẩm cho các đền thờ,
giới quý tộc, và quân đội. Đổi lại, elite đã lo việc cứu trợ nạn đói và an
ninh. Mitatrong tay de Toledo, đặc biệt mita Potosí, đã trở thành sơ đồ lớn
nhất và nặng nề nhất về khai thác lao động trong thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha.
De Toledo đã xác định một vùng lưu vực mênh mông, chạy từ giữa của Peru hiện đại và bao gồm hầu hết Bolivia hiện
đại. Nó bao phủ một diện tích khoảng hai trăm ngàn dặm vuông. Trong vùng này,
một phần bảy cư dân đàn ông, mới đến các reduccion của họ, được yêu cầu làm việc tại các
mỏ ở Potosí. Mita Potosí
đã tồn tại suốt toàn bộ thời kỳ thuộc địa và đã chỉ bị bãi bỏ vào năm 1825. Bản
đồ 1 cho thấy vùng lưu vực của mita được
chồng lên khoảng rộng của Đế chế Inca vào thời Tây Ban Nha chinh phục. Nó minh
họa mức độ mà mita đã
chồng gối lên vùng trung tâm của đế chế, bao gổm thủ đô Cusco .
Đáng chú ý, bạn vẫn thấy di sản của mita ở Peru ngày nay. Hãy xét những sự
khác biệt giữa các tỉnh Calca và Acomayo gần đó. Có vẻ có vài sự khác biệt giữa
các tỉnh này. Cả hai đều ở trên vùng núi cao, và các hậu duệ, nói tiếng Quechua,
của những người Inca sống ở mỗi tỉnh. Thế nhưng, Acomayo thì nghèo hơn nhiều,
với các cư dân của nó tiêu thụ khoảng một phần ba ít hơn các cư dân ở Calca.
Người dân biết điều này. Ở Acomayo họ hỏi những người nước ngoài can đảm, “Bạn
không biết rằng người dân ở đây nghèo hơn người dân ở đó, ở Calca ư? Vì sao bạn
lại từng muốn đến đây?” Can đảm bởi vì là khó hơn rất nhiều để đến Acomayo từ
thủ đô khu vực Cusco , trung tâm cổ xưa của đế
chế Inca, so với đến Calca. Đường đến Calca được tráng lớp mặt, còn đường đến
Acomayo thì trong tình trạng hư nát kinh khủng. Để đi quá Acomayo bạn cần một
con ngựa hay một con la. Ở Calca và Acomayo người dân trồng cùng loại cây
trồng, nhưng ở Calca họ bán chúng ở chợ để lấy tiền. Còn ở Acomayo họ nuôi
trồng thực phẩm cho sự tồn tại của riêng họ. Những sự bất bình đẳng này, rõ
ràng với con mắt và người dân sống ở đó, có thể được hiểu dưới dạng những khác
biệt thể chế giữa các tỉnh này – những sự khác biệt thể chế với gốc rễ quay lại
đến de Toledo và kế hoạch khai thác hiệu quả lao động bản địa của ông. Sự khác
biệt lịch sử chính giữa Acomayo và Calco là, Acomayo đã ở trong vùng mita Potosí, còn Calca thì không.
Ngoài sự tập trung lao động và mita, de Toledo đã củng cố encomienda thành thuế thân, một khoản cố định
bằng bạc mà mỗi người đàn ông trưởng thành phải nộp hàng năm. Đấy đã là một sơ
đồ khác được trù tính để buộc người dân vào thị trường lao động và giảm bớt
lương [có lợi] cho các địa chủ Tây Ban Nha. Một thể chế khác, repartimiento
de mercancias, cũng đã trở nên phổ biến trong nhiệm kỳ của de Toledo . Có xuất xứ từ
động từ tiếng Tây Ban Nha repartir, phân chia, repartimiento này, nghĩa đen là “phân phối
hàng hóa”, dính dáng đến việc cưỡng bức bán hàng hóa cho những người địa phương
với giá do những người Tây Ban Nha quyết định. Cuối cùng, de Toledo đã đưa ra trajin
– theo nghĩa
đen có nghĩa là “gánh nặng” – mà đã sử dụng những người bản địa để mang vác các
hàng hóa nặng, như rượu hay lá coca hay hàng dệt may, như cái thay thế cho bầy
động vật, cho những công việc kinh doanh mạo hiểm của elite Tây Ban Nha.
Khắp thế giới thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ,
các thể chế và các cấu trúc xã hội tương tự đã nổi lên. Sau giai đoạn ban đầu
của sự cướp bóc, và sự thèm khát vàng và bạc, những người Tây Ban Nha đã tạo ra
một mạng lưới các thể chế được trù tính để khai thác người dân bản địa. Cung
bậc đầy đủ của encomienda, mita, repartimiento, và trajin đã được thiết kế để ép mức sống của
những người bản địa xuống mức đủ sống qua ngày và như thế moi tất cả thu nhập
thặng dư của việc này cho những người Tây Ban Nha. Việc này đã đạt được bằng
cách tước đoạt đất của họ, cưỡng bức họ lao động, trả lương thấp cho các dịch
vụ lao động của họ, áp đặt các loại thuế cao, tính giá cao cho các hàng hóa đã
thậm chí không được mua một cách tự nguyện. Tuy các thể chế này đã tạo ra nhiều
của cải cho Quốc vương Tây Ban Nha và đã làm cho những kẻ chinh phục và các hậu
duệ của họ rất giàu, chúng cũng đã biến Mỹ Latin thành lục địa bất bình đẳng
nhất thế giới và đã làm hao mòn nhiều tiềm năng kinh tế của nó.
… ĐẾN JAMESTOWN
Khi những người Tây Ban Nha bắt đầu cuộc chinh
phục châu Mỹ của họ trong các năm 1490, nước Anh còn là một cường quốc nhỏ ở
châu Âu, đang phục hồi từ những hệ quả tàn phá của cuộc nội chiến, các cuộc
Chiến tranh Hoa Hồng. Nó đã không ở trong trạng thái để tận dụng sự tranh giành
cướp bóc và vàng và cơ hội để khai thác những người bản địa của châu Mỹ. Gần
một trăm năm sau, vào năm 1588, sự thảm bại may mắn của Armada Tây Ban Nha, một
mưu toan của Vua Tây Ban Nha Philip II để xâm lăng Anh, đã gửi làn sóng sốc
chính trị khắp châu Âu. Dẫu thắng lợi của Anh đã có may mắn đến đâu, nó cũng đã
là một dấu hiệu về sự quả quyết ngày càng tăng của Anh trên biển, điều mà sẽ
cho phép họ rốt cuộc tham gia vào việc theo đuổi đế chế thuộc địa.
Như thế đã không phải ngẫu nhiên rằng những
người Anh bắt đầu cuộc thuộc địa hóa Bắc Mỹ của họ chính xác vào cùng thời gian
đó. Nhưng họ đã là những người đến muộn rồi. Họ đã chọn Bắc Mỹ không phải vì nó
hấp dẫn, mà bởi vì đó là tất cả cái sẵn có còn lại. Các phần “đáng mong muốn”
của châu Mỹ, nơi dồi dào những người bản địa để khai thác và nơi có các mỏ vàng
và bạc, đã bị chiếm mất rồi. Người Anh đã nhận các phần còn thừa. Khi nhà văn
nhà nông học Anh thế kỷ mười tám Arthur Young bàn về nơi sản xuất “các sản
phẩm chính” có lời, mà ông hiểu các sản phẩm chính là các hàng hóa nông nghiệp
có thể xuất khẩu được, đã lưu ý:
Có vẻ xét trên mọi mặt, rằng việc sản xuất các
sản phẩm chính của các thuộc địa của chúng ta giảm về giá trị theo tỷ lệ với
khoảng cách của chúng đến mặt trời. Ở các vùng Tây Ấn, mà là các vùng nóng
nhất, chúng đạt mức 8l. 12s. 1d. trên đầu người. Trong các vùng lục địa phương
nam, đạt mức 5l. 10s. Trong các vùng miền trung, đạt mức 9s. 6½d. Trong các
vùng định cư phương bắc, đạt mức 2s. 6d. Tỷ lệ này chắc chắn gợi ý một bài học
quan trọng nhất – tránh việc thuộc địa hóa ở các vùng miền bắc.
Mưu toan đầu tiên của người Anh để lập một
thuộc địa, tại Roanoke, ở Bắc Carolina, giữa 1585 và 1587, đã hoàn toàn thất
bại. Vào năm 1607, họ lại thử lần nữa. Ngay trước khi kết thúc năm 1606, ba
tàu, Susan Constant, Godspeed, và Discovery, dưới
sự chỉ huy của Thuyền trưởng Christopher Newport, đã khởi hành đến Virginia.
Các nhà thực dân, dưới sự bảo trợ của Công ty Virginia, đã tiến vào Vịnh
Chesapeake và ngược lên một con sông mà họ đã gọi là sông James, theo tên Quốc
vương Anh đang trị vì, James I. Ngày 14-5-1607, họ đã lập ra khu định cư
Jamestown.
Tuy những người định cư trên boong tàu do Công
ty Virginia sở hữu đã là những người Anh, họ đã có một mô hình thuộc địa hóa bị
ảnh hưởng mạnh bởi mẫu do Cortés, Pizzaro, và de Toledo dựng lên. Kế hoạch đầu
tiên của họ đã là đi bắt thủ lĩnh địa phương và sử dụng ông ta như cách để được
cung cấp lương thực thực phẩm, và để cưỡng bức dân cư sản xuất thực phẩm và của
cải cho họ.
Khi lần đầu tiên đổ bộ lên Jamestown , các thực dân Anh đã không biết
rằng họ ở bên trong lãnh thổ được yêu sách bởi Hợp bang Powhatan, một liên minh
của khoảng ba mươi chính thể thừa nhận lòng trung thành với một vị vua được gọi
là Wahunsunacock. Thủ đô của Wahunsunacock đã là thị trấn Werowocomoco, chỉ
cách Jemestown có hai mươi dặm. Kế hoạch của các nhà thực dân đã là tìm hiểu
thêm về thế đất [địa hình địa thế và tình hình] ở đây. Nếu không thể xui khiến
được những người địa phương để cung cấp thức ăn và lao động, các nhà thuộc địa
chí ít có khả năng để trao đổi với họ. Ý niệm rằng bản thân những người định cư
sẽ làm việc và nuôi trồng thực phẩm riêng của họ có vẻ đã không thoáng qua đầu
óc họ. Đó không phải là việc mà các nhà chinh phục Thế giới Mới đã làm.
Wahunsunacock mau chóng nhận thức được về sự
hiện diện của các nhà thuộc địa và đã xem xét các ý định của họ với sự nghi ngờ
lớn. Ông đã chịu trách nhiệm về cái đối với Bắc Mỹ quả thực là một đế chế rất
rộng. Nhưng ông đã có nhiều kẻ thù và thiếu sự tập trung chính trị áp đảo của
những người Inca. Wahunsunacock đã quyết định để thăm dò xem ý định của những
người Anh là gì, ban đầu gửi những người đưa tin nói rằng ông muốn có quan hệ
hữu hảo với họ.
Khi mùa đông năm 1607 khép lại, những người
định cư ở Jamestown bắt đầu cạn kiệt thức ăn, và người lãnh đạo được chỉ định
của hội đồng cai trị thuộc địa, Edward Marie Wingfield, đã chần chừ lưỡng lự.
Tình hình đã được Đại úy John Smith cứu vớt. Smith, mà các bài viết của ông đã
cung cấp một trong những nguồn thông tin chính của chúng ta về sự phát triển
ban đầu của thuộc địa, là một nhân vật rất ấn tượng. Sinh ra ở Anh, tại vùng
nông thôn Lincolnshire ,
ông đã coi thường các mong muốn của cha mình đối với ông để đi kinh doanh và
thay vào đó đã trở thành một người lính gặp may. Đầu tiên ông đã chiến đấu với
quân đội Anh ở Hà Lan, sau đó ông gia nhập lực lượng Áo phục vụ ở Hungary chiến
đấu chống quân đội của Đế chế Ottoman. Bị bắt ở Rumani, ông đã bị bán như nô lệ
và bị đưa đi làm như một người phụ việc ngoài đồng. Một ngày ông đã tìm được
cách thắng ông chủ của mình, ăn trộm quần áo và ngựa của ông chủ, trốn trở lại
lãnh thổ Áo. Smith đã chuốc lấy rắc rối cho mình trên hành trình đến Virginia và đã bị nhốt
trên tàu Susan Constant vì sự nổi loạn coi thường mệnh lệnh
của Wingfield. Khi tàu đến Thế giới Mới, kế hoạch đã là đưa ông ra xử. Trước sự
vô cùng kinh tởm của Wingfield, Newort, và các nhà thuộc địa elite khác, tuy
vậy, khi họ mở các lệnh được niêm phong gắn xi của họ, họ đã phát hiện ra rằng
Công ty Virginia đã bổ nhiệm Smith làm một thành viên của hội đồng cai trị để
cai quản Jamestown.
Với Newport lái tàu quay lại Anh lấy hàng cung
ứng và nhiều nhà thuộc địa hơn, và Wingfield không chắc chắn về phải làm gì,
chính Smith đã là người cứu thuộc địa. Ông đã khởi xướng một loạt chuyến buôn
mà đã đảm bảo sự cung ứng thực phẩm trọng yếu. Trong một trong các chuyến này
ông đã bị Opechancanough, một trong những người em của Wahunsunacock, bắt và bị
đưa về trước mặt nhà vua ở Werowocomoco. Ông đã là người Anh đầu tiên gặp
Wahunsunacock, và chính đã là tại cuộc gặp gỡ ban đầu này mà theo một số tường
thuật cuộc sống của Smith đã được cứu chỉ do sự can thiệp của Pocahontas, em
gái của Wahunsunacock. Được trả tự do ngày 2-1-1608, Smith đã quay lại Jamestown , mà vẫn cạn kiệt thực phẩm ở mức nguy hiểm, cho
đến sự quay trở lại kịp thời của Newport
từ nước Anh muộn hơn cùng ngày hôm đó.
Các nhà thuộc địa của Jamestown đã học được ít từ kinh nghiệm ban
đầu này. Khi năm 1608 tiếp diễn, họ tiếp tục tìm vàng và kim loại quý của mình.
Họ vẫn có vẻ chưa hiểu rằng để tồn tại, họ không thể dựa vào những người địa
phương để cho họ ăn thông qua hoặc sự cưỡng bức hay sự buôn bán. Chính Smith là
người đầu tiên đã nhận ra rằng mô hình thuộc địa hóa mà đã hoạt động rất tốt
cho Cortés và Pizzaro đơn giản sẽ không hoạt động ở Bắc Mỹ. Hoàn cảnh cơ bản
thật khác nhau. Smith đã lưu ý thấy, không giống những người Aztec và Inca,
người dân ở Virginia
đã không có vàng. Thật vậy, ông ghi chép trong nhật ký của mình, “Bạn phải biết
thực phẩm là tất cả tài sản của họ”. Anas Todkill, một trong những người định
cư ban đầu người đã để lại một nhật ký rộng lớn, đã bày tỏ rõ những thất vọng
của Smith và vài người khác mà dựa vào đó sự thừa nhận này trở nên rõ ràng hơn:
“Đã không có trò chuyện, không có hy vọng,
không có công việc, trừ đào vàng, tinh chế vàng, chất vàng”.
Khi Newport lái tàu về nước Anh tháng Tư năm 1608
ông đã chở chuyến hàng pyrite, vàng của thằng ngốc. Ông đã quay lại vào cuối
tháng Chín với các mệnh lệnh của Công ty Virginia
để giữ sự kiểm soát chặt hơn đối với những người địa phương. Kế hoạch của họ đã
là phong vương cho Wahunsunacock, hy vọng rằng việc này sẽ làm cho ông ta phụ
thuộc vào vua Anh James I. Họ đã mời ông đến Jamestown, nhưng Wahunsunacock,
vẫn nghi ngờ các nhà thuộc địa một cách sâu sắc, đã không có ý định chịu rủi ro
bị bắt. John Smith đã ghi lại trả lời của Wahunsunacock: “Nếu đức Vua của các
ngươi gửi quà cho trẫm, trẫm cũng là một vị Vua, và đây là đất của trẫm … Cha
của các ngươi phải đến chỗ trẫm, không phải trẫm đến chỗ ông ta, chẳng đến pháo
đài của các ngươi, mà trẫm cũng sẽ không cắn một cái mồi như vậy”.
Nếu Wahunsunacock không “cắn mồi như vậy”, thì
Newport và
Smith sẽ phải đi đến Werowocomoco để tiến hành việc phong vương. Toàn bộ sự
kiện có vẻ đã là một sự thất bại hoàn toàn với thứ duy nhất lộ ra từ đó, một
quyết tâm từ phía Wahunsunacock rằng đó là lúc thoát khỏi thuộc địa. Ông đã áp
đặt một sự cấm vận thương mại. Jamestown
sẽ không còn có thể trao đổi lấy hàng cung ứng. Wahunsunacock sẽ làm họ chết
đói.
Smith đã không muốn các thợ kim hoàn vô dụng
nữa. Một lần nữa Jamestown
đã sống sót chỉ bởi vì tài tháo vát của ông. Ông đã tìm được cách để tán tỉnh
và bắt nạt các nhóm bản địa địa phương để trao đổi với ông, và khi chúng không
thể, ông đã làm cái ông có thể. Phía sau ở khu định cư, Smith đã hoàn toàn chịu
trách nhiệm và đã áp đặt quy tắc rằng “ai không làm thì đừng ăn”. Jemestown đã
sống sót qua mùa đông thứ hai.
Công ty Virginia
dự định là một doanh nghiệp làm ra tiền, và sau hai năm thảm hại, đã chẳng thấy
tăm hơi nào của lợi nhuận. Các giám đốc của công ty đã quyết định rằng họ cần
một mô hình quản trị mới, thay thế hội đồng cai trị bằng một thống đốc duy
nhất, Người đầu tiên được bổ nhiệm vào chức vụ này đã là Sir Thomas Gates. Lưu
ý đến một số khía cạnh của sự cảnh báo của Smith, công ty đã nhận ra rằng họ
phải thử cái gì đó mới. Sự nhận thức này đã được hiểu rõ bởi những sự kiện của
mùa đông 1609/1610 – bởi cái gọi là “thời chết đói”. Cách thức quản trị mới đã
không có chỗ cho Smith, người bực bội, đã trở về Anh vào mùa thu năm 1609.
Không có tài xoay xở của ông và với Wahunsunacock bóp nghẹt việc cung cấp thực
phẩm, các nhà thuộc địa của Jamestown
đã chết. Trong số năm trăm người đã bước vào mùa đông, chỉ sáu mươi người còn
sống vào tháng Ba. Tình hình đã tuyệt vọng đến mức họ đã phải quay sang ăn thịt
người.
“Cái gì đó mới” mà đã được áp đặt lên thuộc
địa bởi Gates và người phó của ông, Sir Thomas Dale, đã là một chế độ lao động
nghiêm ngặt hà khắc đối với những người định cư Anh – tuy tất nhiên không phải
đối với elite vận hành thuộc địa. Chính Dale là người đã truyền bá “Luật Thánh
thần, Luân lý và Quân sự”. Luật này bao gồm các điều khoản:
Không đàn ông hay đàn bà nào được chạy từ
thuộc địa sang những người Indian, bị tội chết.
Bất cứ ai cướp một vườn, tư hay công, hay một
vườn nho, hay người ăn cắp các bắp ngô sẽ bị phạt tội chết.
Không thành viên nào của thuộc địa sẽ bán hay
cho bất cứ hàng hóa nào của nước này cho một thuyền trưởng, thủy thủ, ông chủ
hay thủy thủ để chở khỏi thuộc địa, cho việc sử dụng riêng của anh ta, bị tội
chết.
Nếu những người bản địa không được khai thác,
Công ty Virginia
lý luận, có lẽ các nhà thuộc địa có thể. Mô hình mới về phát triển thuộc địa
đòi hỏi Công ty Virginia
làm chủ toàn bộ đất. Đàn ông phải ở trong các doanh trại, và được cấp khẩu phần
do công ty quyết định. Các đội làm việc được lựa chọn, mỗi đội được giám sát
bởi một đại diện của công ty. Nó đã gần với thiết quân luật, với việc hành hình
như sự trừng phạt dùng đến đầu tiên. Như một phần của các thể chế mới cho thuộc
địa, điều đầu tiên vừa được trích là quan trọng. Công ty đe dọa giết những
người bỏ đi. Căn cứ vào chế độ lao động mới, bỏ đi để sống với những người địa
phương đã trở thành một lựa chọn ngày càng hấp dẫn cho các nhà thuộc địa phải
làm việc. Căn cứ vào mật độ thấp của dân cư bản địa ở Virginia
thời đó, cũng đã có triển vọng để bỏ đi một mình ra vùng biên cương ngoài tầm
kiểm soát của Công ty Virginia .
Quyền lực của công ty là hạn chế khi đối mặt với các lựa chọn này. Nó đã không
thể cưỡng bức những người định cư Anh làm việc nặng nhọc với mức khẩu phần đủ
sống.
Bản đồ 2 cho thấy một ước tính mật độ dân số
của các vùng khác nhau của châu Mỹ vào thời Tây Ban Nha chinh phục. Mật độ dân
số của Hoa Kỳ, ngoài vài ổ, nhiều nhất đã là ba phần tư người trên một dặm
vuông. Ở trung tâm Mexico
hay Peru vùng Andes , mật độ dân số cao ở mức bốn trăm người trên một
dặm vuông, cao hơn năm trăm lần. Những gì có thể ở Mexico
hay Peru đã là không khả thi
ở Virginia .
Công ty Virginia
đã cần một ít thời gian để nhận ra rằng mô hình ban đầu của nó về thuộc địa hóa
đã không hoạt động ở Virginia ,
và cũng cần một ít thời gian nữa để thấu hiểu sự thất bại của “Luật Thánh thần,
Luân lý và Quân sự”. Bắt đầu trong năm 1618, một chiến lược hết sức mới đã được
chấp nhận. Vì đã không thể cưỡng bức những người địa phương cũng chẳng thể
cưỡng bức những người định cư, lựa chọn khả dĩ duy nhất đã là khuyến khích
những người định cư. Năm 1618 công ty bắt đầu “hệ thống quyền đầu người –
headright system”, cấp cho mỗi người đàn ông định cư năm mươi mẫu đất [một mẫu
Anh, acre, bằng
khoảng 4.050 m2] và thêm năm mươi mẫu cho mỗi thành viên gia
đình của ông ta và cho tất cả các đầy tớ mà gia đình có thể mang sang Virginia.
Những người định cư được cho nhà ở và được giải phóng khỏi các hợp đồng, và năm
1619 một Đại Hội đồng (General Assembly) được đặt ra mà trên thực tế đã cho tất
cả những người đàn ông trưởng thành quyền quyết định về các luật và các thể chế
cai trị thuộc địa. Nó đã là khởi đầu của nền dân chủ ở Hoa Kỳ.
Công ty Virginia đã cần đến mười hai năm để
học bài học đầu tiên của mình rằng những gì đã hoạt động cho người Tây Ban Nha
ở Mexico và ở Trung và Nam Mỹ sẽ không hoạt động ở miền bắc. Phần còn lại của
thế kỷ thứ mười bảy đã trải qua một chuỗi dài các cuộc đấu tranh về bài học thứ
hai: lựa chọn duy nhất cho một thuộc địa có thể đứng vững về mặt kinh tế đã là
tạo ra các thể chế khuyến khích các nhà thuộc địa đầu tư và làm việc cần cù.
Trong khi mà Bắc Mỹ phát triển, các elite Anh
hết lần này đến lần khác đã thử dựng lên các thể chế mà chúng hạn chế nặng nề
đến các quyền kinh tế và chính trị của tất cả mọi người trừ một số ít có đặc
quyền trong dân cư của thuộc địa, hệt như những người Tây Ban Nha đã làm. Thế
nhưng trong mỗi trường hợp mô hình này đã sụp đổ, như nó đã thất bại ở Virginia .
Một trong những nỗ lực tham vọng nhất đã bắt
đầu không lâu sau sự thay đổi chiến lược của Công ty Virginia . Năm 1632 mười triệu mẫu đất ở phần
trên vùng Vịnh Cheasapeake đã được vua Anh Charles I ban cho Cecilius Calbert,
Lord Baltimore .
Hiến chương của Maryland đã trao cho Lord Baltimore quyền tự do hoàn toàn để
lập ra một chính phủ theo bất cứ đường lối nào ông muốn, với điều VI lưu ý rằng
Baltimore đã có “Quyền lực tự do, đầy đủ, và tuyệt đối, theo ý nghĩa tổng quát
của các Tặng phẩm này, để Quy định, Làm, và Ban hành các Đạo Luật, thuộc bất cứ
Loại nào, cho Chính phủ có đức hạnh và tốt phúc của Tỉnh được nói đến này”.
Các điều khoản của Hiến pháp Cơ bản đặt ra một
cấu trúc xã hội cứng nhắc. Ở dưới cùng là “những người-leet” (leet-men), với
điều khoản 23 ghi, “Tất cả con của những người leet sẽ là những người leet, và
cứ như thế cho mọi thế hệ”. Trên những người leet, những người không có quyền
chính trị nào, là các lãnh chúa (landgrave) và các tộc trưởng (cazique), những
người tạo thành giới quý tộc. Mỗi lãnh chúa được phân cho bốn mươi tám ngàn
mẫu, mỗi tộc trưởng được hai mươi bốn ngàn mẫu. Đã có một quốc hội đại diện cho
các lãnh chúa và tộc trưởng, nhưng nó sẽ được phép để tranh luận chỉ các biện
pháp mà đã được tám chủ sở hữu chấp thuận trước.
Hệt như nỗ lực áp đặt các quy tắc hà khắc ở Virginia đã thất bại, các kế hoạch cho cùng loại các thể
chế ở Maryland và Carolina cũng thế. Các lý do là giống nhau.
Trong mọi trường hợp đã chứng tỏ là không thể ép buộc những người định cư vào
một xã hội có thứ bậc cứng nhắc, bởi vì đơn giản đã có quá nhiều lựa chọn mở ra
cho họ ở Thế giới Mới. Thay vào đó, phải cung cấp cho họ các khuyến khích để họ
muốn làm việc. Và chẳng bao lâu họ đã đòi nhiều quyền tự do kinh tế hơn và thêm
các quyền chính trị nữa. Cả ở Maryland
nữa, những người định cư khăng khăng đòi có được đất riêng của họ, và họ đã
buộc Lord Baltimore vào việc tạo ra một hội đồng. Vào năm 1691, hội đồng đã xui
khiến vua tuyên bố Maryland là một thuộc địa thuộc Quốc vương [Crown colony,
nên chưa được độc lập], như thế loại bỏ các đặc quyền chính trị của Baltimore
và các đại lãnh chúa của ông. Một cuộc chiến đấu kéo dài tương tự đã xảy ra ở Carolina , lại lần nữa với
các chủ sở hữu bị thua. Nam Carolina trở thành thuộc địa hoàng gia vào năm
1729.
Vào các năm 1720, tất cả mười ba thuộc địa của
cái sẽ trở thành Hoa Kỳ đã có các cấu trúc chính phủ giống nhau. Trong mọi
trường hợp đã có một thống đốc, và một hội đồng dựa vào quyền bầu cử của những
người đàn ông chủ tài sản. Chúng đã chưa phải là các nền dân chủ; phụ nữ, nô
lệ, và những người không có tài sản đã không được bỏ phiếu. Nhưng các quyền
chính trị đã là rất rộng so với các xã hội đương thời ở nơi khác. Chính các hội
đồng này và các nhà lãnh đạo của chúng là cái đã hợp lại để hình thành Quốc hội
Lục địa Đầu tiên (First Continental Congress) vào năm 1774, khúc dạo đầu cho sự
độc lập của Hoa Kỳ. Các hội đồng đã tin họ có quyền để quyết định cả tư cách
thành viên riêng của họ lẫn quyền đánh thuế. Điều này, như chúng ta biết, gây
ra các vấn đề đối với chính phủ thuộc địa Anh.
CÂU CHUYỆN VỀ HAI HIẾN PHÁP
Bây giờ phải là rõ ràng, rằng không phải là sự
trùng hợp ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ, chứ không phải Mexico, đã thông qua và thực thi
một hiến pháp tán thành các nguyên tắc dân chủ, tạo ra các hạn chế về việc sử
dụng quyền lực chính trị, và phân phối quyền lực đó một cách rộng rãi trong xã
hội. Văn kiện mà các đại biểu đã ngồi xuống để viết ở Philadelphia
năm 1787 đã là kết quả của một quá trình dài được khởi đầu bằng sự hình thành
của Đại Hội đồng ở Jamestown
năm 1619.
Santa Ana , con của một quan chức thuộc địa ở Veracruz , trở nên nổi
bật như một người lính chiến đấu cho Tây Ban Nha trong các cuộc chiến tranh độc
lập. Năm 1821, ông đã chuyển sang phía Iturbide và đã không bao giờ nhìn lại.
Ông đã trở thành tổng thống Mexico
lần đầu tiên vào tháng Năm 1833, tuy ông thực hiện quyền lực ít hơn một tháng,
thích để cho Valentín Gómez Farías hành động với tư cách tổng thống hơn. Nhiệm
kỳ tổng thống của Gómez Farías kéo dài mười lăm ngày, sau đó Santa Ana nắm lại quyền lực. Tuy nhiên, đấy
đã ngắn như phiên đầu tiên của ông, và ông đã lại bị Gómez Farías thay thế, vào
đầu tháng Bảy. Santa Ana và Gómez Farías đã tiếp
tục điệu nhảy này cho đến giữa 1835, khi Santa
Ana bị Miguel Barragán thay thế. Nhưng Santa Ana đã
không là một kẻ bỏ cuộc. Ông đã quay lại làm tổng thống trong các năm 1839,
1841, 1844, 1847, và, cuối cùng, giữa 1853 và 1855. Tổng cộng, ông đã là tổng
thống mười một lần, trong đó ông đã chịu trách nhiệm về việc để mất Alamo và
Texas và chiến tranh Mexic-Mỹ tai hại, mà đã dẫn đến việc để mất cái trở thành
New Mexico và Arizona. Giữa 1824 và 1867 đã có năm mươi hai tổng thống ở
Mexico, vài trong số đó đã nắm quyền theo thủ tục đã được phê chuẩn một cách
hợp hiến.
Sự tương phản giữa quá trình lập hiến xảy ra
vào thời độc lập của Hoa Kỳ và quá trình xảy ra sau đó một chút ở Mexico lộ rõ
hẳn ra. Trong tháng Hai 1808, quân đội Pháp của Napoleon Bonaparte đã xâm lăng
Tây Ban Nha. Vào tháng Năm họ đã lấy được Madrid , thủ đô Tây Ban Nha. Vào tháng Chín
vua Tây Ban Nha Ferdinal đã bị bắt và đã thoái vị. Một junta (hội đồng hành
chính) quốc gia, Junta Trung ương, đã thế chỗ ông, cầm ngọn đuốc trong cuộc
chiến đấu chống Pháp. Junta họp lần đầu tiên tại Aranjuez, nhưng đã rút lui
xuống phía nam trước quân đội Pháp. Cuối cùng nó đã đến cảng Cádiz, mà, tuy bị
các lực lượng Napoleonic bao vây, vẫn đã đứng vững. Ở đây Junta đã thành lập
một quốc hội, được gọi là Cortes. Năm 1812 Cortes đã tạo ra cái được biết đến
như Hiến pháp Cádiz, mà nó kêu gọi việc lập ra một nền quân chủ lập hiến dựa
trên những quan niệm của chủ quyền nhân dân. Nó cũng đã kêu gọi chấm dứt các đặc
quyền và đưa vào sự bình đẳng trước pháp luật. Elite của Nam Mỹ, những người
vẫn cai trị trong một môi trường, do encomienda, lao động cưỡng bức, và quyền
lực tuyệt đối được ban cho họ và nhà nước thuộc địa định hình, đã ghét cay ghét
đắng những đòi hỏi này.
Sự sụp đổ của nhà nước Tây Ban Nha với sự xâm
lược Napoleon đã tạo ra một khủng hoảng hiến pháp trên khắp Mỹ Latin thuộc địa.
Đã có tranh luận nhiều về liệu có thừa nhận thẩm quyền của Junta Trung ương hay
không, và đáp lại, nhiều người Mỹ Latin đã bắt đầu thành lập các junta riêng
của họ. Đã chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi họ bắt đầu ý thức được khả
năng trở thành thực sự độc lập với Tây Ban Nha. Tuyên bố độc lập đầu tiên đã
xảy ra ở La Paz , Bolivia ,
năm 1809, tuy nó đã nhanh chóng bị nghiền nát bởi binh lính Tây Ban Nha được
gửi từ Peru
sang. Tại Mexico thái độ
chính trị của elite đã được định hình bởi cuộc Nổi loạn Hidalgo năm 1810, được lãnh đạo bởi một linh
mục, Cha Miguel Hidalgo. Khi quân đội của Hidalgo cướp phá Guanajuato ngày 23
tháng Chín, họ đã giết quản đốc, quan chức thuộc địa cấp cao, và sau đó đã bắt
đầu giết những người gia trắng một cách không phân biệt. Nó đã giống một cuộc
chiến tranh giai cấp hay sắc tộc hơn là một phong trào độc lập, và nó đã hiệp
nhất tất cả elite trong phe đối lập. Nếu sự độc lập cho phép sự tham gia của
nhân dân vào chính trị, elite địa phương, không chỉ những người Tây Ban Nha, đã
chống lại nó. Hệ quả là, elite Mexico
đã xem xét Hiến pháp Cádiz, mà đã mở đường cho sự tham gia của nhân dân, với sự
ngờ vực cực kỳ; họ sẽ chẳng bao giờ công nhận tính hợp pháp của nó.
Năm 1815, khi đế chế Âu châu của Napoleon sụp
đổ, Vua Ferdinand VII quay lại nắm quyền và Hiến pháp Cádiz đã bị bãi bỏ. Khi
Quốc Vương Tây Ban Nha bắt đầu thử đòi lại các thuộc địa Mỹ của nó, nó đã không
gặp khó khăn với Mexico
trung thành. Thế nhưng, năm 1820, một đội quân Tây Ban Nha đã tụ tập ở Cádiz để
đi tàu sang châu Mỹ giúp khôi phục lại thẩm quyền Tây Ban Nha đã nổi loạn chống
Ferdinand VII. Các lực lượng quân đội khắp nước đã gia nhập với họ, và
Ferdinand đã buộc phải khôi phục Hiến pháp Cádiz và triệu tập lại Cortes.
Cortes này thậm chí còn cấp tiến hơn Cortes đã soạn ra Hiến pháp Cádiz, và nó
đã đề xuất xóa bỏ mọi hình thức cưỡng bức lao động. Nó cũng đã tấn công các đặc
quyền đặc biệt – thí dụ, quyền của quân đội để được xử các tội hình sự tại các
tòa án riêng của họ. Đối mặt cuối cùng với sự áp đặt văn kiện này ở Mexico , elite ở
đó đã quyết định rằng tốt hơn nếu nó đi một mình và tuyên bố độc lập.
Phong trào độc lập này đã được lãnh đạo bởi
Augustín de Iturbide, người đã là một sỹ quan trong quân đội Tây Ban Nha. Ngày
24-2-1821, ông công bố Plan de Iguala (Kế hoạch Iguala), tầm nhìn của ông cho
một Mexico
độc lập. Kế hoạch đã đề cao một nền quân chủ lập hiến với một hoàng đế Mexic,
và đã loại bỏ các quy định của Hiến pháp Cádiz mà elite Mexic thấy rất đe dọa
đến địa vị và các đặc quyền của họ. Nó đã nhận được sự ủng hộ tức thời, và Tây
Ban Nha đã nhanh chóng nhận ra rằng nó không thể ngăn cái không thể tránh khỏi.
Nhưng Iturbide đã không chỉ tổ chức sự ly khai Mexic. Nhận ra chân không quyền
lực, ông đã nhanh chóng tận dụng sự ủng hộ của quân đội, ông đã tự tuyên bố
mình là hoàng đế, một vị trí mà nhà lãnh đạo vĩ đại của nền độc lập Nam Mỹ,
Simón Bolivar, đã mô tả như “nhờ ân sủng của Chúa và của lưỡi lê”. Iturbide đã
không bị ràng buộc bởi cùng các thể chế chính trị mà các tổng thống Hoa Kỳ bị
hạn chế; ông đã nhanh chóng biến mình thành một kẻ độc tài, và vào tháng Mười
1822, ông đã giải tán quốc hội được phê chuẩn một cách hợp hiến và đã thay thế
nó bằng một junta do ông chọn. Tuy [triều đại] Iturbide đã không kéo dài, nhưng
hình mẫu này của các sự kiện đã lặp đi lặp lại ở Mexico thế kỷ thứ mười chín.
Hiến pháp Hoa Kỳ đã không tạo ra một nền dân
chủ theo các tiêu chuẩn hiện đại. Ai có thể bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử đã
được để cho từng bang quyết định. Trong khi các bang miền bắc đã nhanh chóng
thừa nhận quyền bỏ phiếu của tất cả những đàn ông da trắng bất kể họ nhận được
bao nhiêu thu nhập hay có bao nhiêu tài sản, còn các bang miền nam đã chỉ làm
vậy một cách từ từ. Không bang nào đã trao quyền bầu cử cho phụ nữ hay các nô
lệ, và khi những hạn chế về tài sản và của cải đã được bãi bỏ đối với đàn ông
gia trắng, việc tước quyền bầu cử của các đàn ông da đen đã được đưa vào một
cách tường minh. Chế độ nô lệ, tất nhiên, đã được coi là hợp hiến khi Hiến pháp
Hoa Kỳ được soạn ở Philadelphia, và sự thương lượng đê tiện nhất đã liên quan
đến việc phân chia các ghế trong Hạ viện giữa các bang. Các ghế này được phân
bổ trên cơ sở dân số của mỗi bang, nhưng các đại biểu quốc hội của các bang
miền nam khi đó đã đòi hỏi rằng các nô lệ phải được tính. Những người miền bắc
đã phản đối. Sự thỏa hiệp đã là trong chia phần các ghế Hạ viện, một nô lệ sẽ
được tính như ba phần năm của một người tự do. Các xung đột giữa miền Bắc và
miền Nam
của Hoa Kỳ đã được kiềm chế trong quá trình lập hiến vì quy tắc ba phần năm và
những thỏa hiệp khác đã được nghĩ ra. Những sang sửa mới được thêm vào theo
thời gian – thí dụ, Thỏa hiệp Missouri, một dàn xếp nơi một bang ủng hộ chế độ
nô lệ và một bang phản đối chế độ nô lệ đã luôn luôn được cộng thêm vào toàn
liên bang, để giữ sự cân bằng trong Thượng viện gữa các bang ủng hộ và chống
đối chế độ nô lệ. Những chuyện vớ vẩn này đã giữ các thể chế chính trị của Hoa
Kỳ hoạt động một cách yên bình cho đến khi Nội Chiến cuối cùng đã giải quyết
các xung đột theo cách có lợi cho miền Bắc.
Nội Chiến đã đẫm máu và tàn phá. Nhưng cả
trước và sau chiến tranh đã có nhiều cơ hội kinh tế cho một phần lớn dân số,
đặc biệt ở miền bắc và miền tây Hoa Kỳ. Tình hình ở Mexico đã rất khác. Nếu Hoa Kỳ đã
trải qua năm năm bất ổn chính trị giữa 1860 và 1865, thì Mexico đã trải nghiệm
sự bất ổn hầu như không ngừng suốt năm mươi năm đầu của sự độc lập. Việc này
được minh họa khéo nhất qua sự nghiệp của Antonio Lospez de Santa Ana .
Hậu quả của sự bất ổn chính trị chưa từng có
này đối với các thể chế và các khuyến khích kinh tế phải là rõ ràng. Sự bất ổn
như vậy đã dẫn đến các quyền tài sản hết sức không chắc chắn. Nó cũng đã dẫn
đến một sự suy yếu nghiêm trọng của nhà nước Mexic, mà bây giờ đã có ít thẩm
quyền và ít khả năng để thu thuế hay cung cấp các dịch vụ công. Thực vậy, mặc
dù Santa Ana đã là tổng thống ở Mexico, nhiều phần rộng lớn của nước này đã
không nằm dưới sự kiểm soát của ông, mà đã cho phép việc sáp nhập Texas bởi Hoa
Kỳ. Ngoài ra, như chúng ta vừa thấy, động cơ nằm đằng sau sự tuyên bố độc lập
Mexic đã là để bảo vệ tập các thể chế kinh tế đã được phát triển trong thời kỳ
thuộc địa, mà đã biến Mexico, theo lời của nhà khám phá và nhà địa lý Đức vĩ
đại về Mỹ Latin, Alexander von Humbolt, trở thành “nước của sự bất bình đẳng”.
Các thể chế này, do đặt cơ sở xã hội trên sự khai thác người dân bản địa và tạo
ra các độc quyền, đã ngăn chặn các khuyến khích kinh tế và các sáng kiến của
quảng đại quần chúng nhân dân. Trong khi Hoa Kỳ đã bắt đầu trải nghiệm Cách mạng
Công nghiệp trong nửa đầu của thế kỷ thứ mười chín, thì Mexico đã trở nên nghèo hơn.
CÓ MỘT Ý TƯỞNG, KHỞI ĐỘNG MỘT HÃNG, VÀ NHẬN
ĐƯỢC MỘT KHOẢN VAY
Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu ở nước Anh.
Thành công đầu tiên của nó đã là cách mạng hóa sản xuất quần áo vải bông bằng
cách sử dụng các máy mới được cung cấp lực bởi các bánh xe nước và muộn hơn bởi
các động cơ hơi nước. Cơ giới hóa việc sản xuất vải bông đã làm tăng rất nhiều
năng suất của những người lao động, đầu tiên trong ngành dệt may, và sau đó
trong các ngành khác. Động cơ của những đột phá công nghệ trong khắp nền kinh
tế là sự đổi mới sáng tạo (innovation), với mũi xung kích của các doanh nhân và
các nhà kinh doanh mới háo hức áp dụng các ý tưởng mới của họ. Sự nở hoa ban
đầu này đã nhanh chóng lan qua Bắc Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ. Người dân đã thấy
các cơ hội kinh tế to lớn sẵn có trong thích nghi các công nghệ mới được phát
triển ở Anh. Họ cũng được truyền cảm hứng để phát triển các sáng chế riêng của
mình.
Chúng ta có thể thử để hiểu bản chất của các
sáng chế này bằng cách ngó xem ai đã được cấp bằng sáng chế. Hệ thống bằng sáng
chế, mà bảo vệ các quyền tài sản trong các ý tưởng, đã được hệ thống hóa trong
Đạo luật về các Độc quyền được xây dựng và ban hành bởi Quốc hội Anh năm 1623,
một phần như một nỗ lực để ngăn chặn nhà vua khỏi ban một cách tùy tiện “các
thư bằng sáng chế” cho ai mà ngài muốn – trên thực tế cấp các quyền độc quyền
để thực hiện các hoạt động hay các công việc kinh doanh nhất định. Điều nổi bật
về bằng chứng cấp bằng sáng chế ở Hoa Kỳ là, những người được cấp bằng sáng chế
đến từ mọi loại xuất thân, mọi loại bối cảnh và mọi ngành nghề, chứ không chỉ
là những người giàu và ưu tú. Nhiều người đã kiếm được bộn tiền hay trở nên
giàu có dựa vào các bằng sáng chế của mình. Hãy xét Thomas Edison, người sáng
chế ra đĩa ghi âm, bóng đèn điện và người sáng lập ra General Electric, vẫn là
một trong những công ty lớn nhất thế giới. Edison
đã là người con út trong bảy người con. Cha ông, Samuel Edison, đã theo nhiều
nghề, từ tách các tấm ván làm ngói gỗ lợp nhà đến làm thợ may đến cai quản một
quán rượu. Thomas đã ít được học chính thống ở trường nhưng đã được học tại nhà
nhờ mẹ ông.
Giữa 1820 và 1845, chỉ có 19 phần trăm những
người được cấp bằng sáng chế ở Hoa Kỳ đã có cha mẹ là các nhà chuyên nghiệp hay
từ các gia đình chủ đất lớn có thể nhận ra được. Trong cùng thời kỳ, 40 phần
trăm những người đã được cấp bằng sáng chế chỉ đã học tiểu học hay ít hơn, đúng
như Edison . Hơn nữa, họ thường khai thác bằng
sáng chế của mình bằng cách thành lập một hãng, lại giống như Edison .
Hệt như Hoa Kỳ trong thế kỷ thứ mười chín về mặt chính trị đã là dân chủ hơn
hầu như bất cứ quốc gia khác nào trên thế giới vào thời đó, nó cũng đã dân chủ
hơn các nước khác khi nói về đổi mới sáng tạo. Điều này là cốt yếu cho con
đường của nó để trở thành quốc gia đổi mới sáng tạo nhất về mặt kinh tế trên
thế giới.
Nếu bạn nghèo với một ý tưởng hay, thì một
việc là lấy một bằng sáng chế, mà, rốt cuộc, cũng không tốn kém lắm. Là chuyện
hoàn toàn khác để dùng bằng sáng chế đó để kiếm tiền. Một cách, tất nhiên, là
bán bằng sáng chế cho ai đó khác. Đấy là cách Edison đã làm lúc đầu, để huy
động một ít vốn, khi ông bán [bằng sáng chế về] máy điện tín Quadruplex cho Western Union lấy 10.000 USD. Nhưng bán các bằng sáng chế
là một ý tưởng hay chỉ cho ai đó giống Edison ,
người đã có các ý tưởng nhanh hơn ông có thể đưa chúng vào thực tế. (Ông đã có
một kỷ lục thế giới 1.093 bằng sáng chế đã được cấp cho ông ở Hoa Kỳ, và 1.500
trên toàn thế giới). Cách thực sự để kiếm tiền từ một bằng sáng chế là lập
doanh nghiệp riêng của bạn. Nhưng để khởi động một doanh nghiệp, bạn cần vốn,
và bạn cần các ngân hàng cho bạn vay vốn.
Các nhà sáng chế ở Hoa Kỳ một lần nữa lại gặp
may. Trong thế kỷ thứ mười chín đã có sự mở rộng nhanh của trung gian tài chính
và hoạt động ngân hàng mà đã là một nhân tố cốt yếu tạo thuận lợi cho sự tăng
trưởng nhanh và công nghiệp hóa mà nền kinh tế đã trải qua. Trong khi vào năm
1818 đã có 338 ngân hàng hoạt động ở Hoa Kỳ, với tổng tài sản 160 triệu USD,
vào năm 1914 đã có 27.864 ngân hàng với tổng tài sản 27,3 tỷ USD. Các nhà đầu
tư tiềm năng ở Hoa Kỳ đã có rồi sự tiếp cận đến vốn để khởi động các doanh
nghiệp của mình. Hơn nữa, sự cạnh tranh cao độ giữa các ngân hàng và các tổ
chức tài chính ở Hoa Kỳ đã có nghĩa rằng khoản vốn này đã sẵn có với lãi suất
khá thấp.
Cùng thứ đã không đúng ở Mexico . Thực
ra, vào năm 1910, khi Cách mạng Mexic bắt đầu, đã chỉ có bốn mươi hai ngân hàng
ở Mexico, và hai trong số đó đã kiểm soát 60 phần trăm tổng tài sản ngân hàng.
Không giống Hoa Kỳ, nơi cạnh tranh là khốc liệt, hầu như đã không có cạnh tranh
giữa các ngân hàng Mexic. Sự thiếu cạnh tranh này có nghĩa rằng các ngân hàng
đã có thể tính lãi suất rất cao cho các khách hàng của mình, và thường đã giới
hạn việc cấp tín dụng cho người có đặc quyền và người đã giàu rồi, những người
sau đó sẽ sử dụng sự tiếp cận của họ đến tín dụng để tăng sự kìm kẹp của họ đối
với các khu vực khác nhau của nền kinh tế.
Hình thức, mà ngành ngân hàng Mexico đã lấy
trong các thế kỷ mười chín và hai mươi, đã là kết quả trực tiếp của các thể chế
chính trị sau độc lập của nước này. Sự hỗn độn của thời đại Santa Ana được kế
tiếp bởi một nỗ lực chết yểu của chính phủ Pháp của Hoàng đế Napoleon II để tạo
ra một chế độ thuộc địa ở Mexico dưới Hoàng đế Maximillian I giữa 1864 và 1867.
Người Pháp đã bị trục xuất, và một hiến pháp mới đã được thảo. Nhưng chính phủ
được lập ra đầu tiên bởi Benito Juárez và, sau cái chết của ông, bởi Sebastián
Lerdo de Tejeda đã mau chóng bị thách thức bởi một nhà quân sự trẻ có tên là
Porfirio Díaz. Díaz đã là một tướng chiến thắng trong chiến tranh chống lại
Pháp và đã nuôi dưỡng khát vọng quyền lực. Ông đã lập một đội quân nổi loạn và,
vào tháng 11-1876, đã đánh bại quân đội của chính phủ ở Trận Tecoac. Trong
tháng Năm của năm sau, ông đã tự bầu mình làm tổng thống. Ông đã tiếp tục cai
trị Mexico ít nhiều không gián đoạn và theo cách ngày càng chuyên quyền cho đến
khi bị lật đổ bởi cách mạng nổ ra ba mươi tư năm sau.
Giống Iturbide và Santa Ana trước ông, Díaz đã bắt đầu cuộc đời
như một chỉ huy quân đội. Một con đường sự nghiệp như vậy vào hoạt động chính
trị đã chắc chắn được biết đến ở Hoa Kỳ. Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, George
Washington, cũng đã là một tướng thành công trong Chiến tranh Độc lập. Ulysess
S. Grant, một trong các tướng Liên bang chiến thắng của Nội Chiến, đã trở thành
tổng thống năm 1869, và Dwight D. Eisenhower, tổng chỉ huy các Lực lượng Đồng
minh ở châu Âu trong Chiến tranh Thế giới II, đã là tổng thống Hoa Kỳ
giữa 1953 và 1961. Tuy vậy, không giống Iturbide, Santa Ana và Díaz, không ai
trong các nhà quân sự này đã dùng vũ lực để lên nắm quyền. Họ cũng đã không
dùng vũ lực để tránh phải từ bỏ quyền lực. Họ đã tuân theo hiến pháp. Tuy
Mexico đã có các hiến pháp trong thế kỷ thứ mười chín, chúng đã đặt ra ít ràng
buộc về cái mà Iturbide, Santa Ana và Díaz đã có thể làm. Những người này đã có
thể bị loại bỏ khỏi quyền lực chỉ bằng cùng cách họ đã đạt được nó: bằng sử
dụng vũ lực.
Díaz đã vi phạm các quyền tài sản của nhân
dân, tạo thuận lợi cho việc chiếm đoạt số lượng đất đai rộng lớn, và ông đã
trao những độc quyền và các đặc ân cho những người ủng hộ ông trong mọi lĩnh
vực kinh doanh, kể cả ngân hàng. Đã chẳng có gì mới về cách ứng xử này. Đấy
chính xác là cái những kẻ chinh phục Tây Ban Nha đã làm, và cái Sata Ana đã làm
theo bước chân họ.
Lý do mà Hoa Kỳ đã có ngành ngân hàng tốt hơn
một cách cơ bản cho sự thịnh vượng kinh tế đã chẳng liên quan gì đến những sự
khác biệt về động cơ của những người sở hữu ngân hàng. Thực vậy, động cơ lợi
nhuận, mà làm nòng cốt cho bản chất độc quyền của ngành ngân hàng ở Mexico , cũng đã
hiện diện cả ở Hoa Kỳ nữa. Nhưng động cơ lợi nhuận này đã được hướng một cách
khác đi bởi vì các thể chế khác biệt hoàn toàn của Hoa Kỳ. Các chủ ngân hàng đã
đối mặt với các thể chế kinh tế khác hẳn, các thể chế đã buộc chúng phải cạnh
tranh mạnh hơn rất nhiều. Và việc này đã phần nhiều là bởi vì các nhà chính
trị, những người soạn ra các quy tắc cho các chủ ngân hàng, bản thân họ đã phải
đối mặt với các khuyến khích rất khác được tạo ra bởi các thể chế chính trị
khác biệt. Thực vậy, vào cuối thế kỷ thứ mười tám, không lâu sau khi Hiến pháp
Hoa Kỳ đi vào hoạt động, một hệ thống ngân hàng trông giống hệ thống, mà sau đó
đã áp đảo ở Mexico, đã bắt đầu nổi lên. Các chính trị gia đã thử thành lập các
độc quyền ngân hàng bang, mà họ đã có thể đưa cho các bạn và các đối tác của họ
để đổi lại một phần lợi nhuận độc quyền. Các ngân hàng cũng đã mau chóng lao
vào công việc kinh doanh cho các chính trị gia, những người điều tiết họ, vay
tiền, hệt như ở Mexico. Nhưng tình hình này đã không thể duy trì được ở Hoa Kỳ,
bởi vì các chính trị gia những người đã thử lập ra các độc quyền ngân hàng này,
không giống như ở Mexico, đã phải tuân theo sự bầu cử và tái bầu cử. Tạo ra các
độc quyền ngân hàng và cấp các khoản vay cho các chính trị gia là công việc
kinh doanh tốt cho các chính trị gia, nếu họ có thể tránh thoát các hậu quả.
Tuy vậy, nó không đặc biệt tốt cho các công dân. Không giống ở Mexico, ở Hoa Kỳ
các công dân đã có thể kìm hãm và giải thoát khỏi các chính trị gia, những
người lạm dụng chức vụ của mình để làm giàu cho mình hay tạo ra các độc quyền
cho các cánh hẩu của mình. Kết quả là, các độc quyền ngân hàng đã sụp đổ. Sự
phân bố rộng các quyền chính trị ở Hoa Kỳ, đặc biệt khi so sánh với Mexico, đã
đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng đến tài chính và các khoản vay. Điều này, đến
lượt nó, lại đảm bảo rằng những người có các ý tưởng và các sáng chế có thể
được hưởng lợi từ chúng.
SỰ THAY ĐỔI PHỤ THUỘC VÀO CON ĐƯỜNG
Thế giới đã thay đổi trong các năm 1870 và
1880. Mỹ Latin đã không là ngoại lệ. Các thể chế, mà Porfirio Díaz đã thiết
lập, đã không giống hệt các thể chế của Santa
Ana hay của nhà nước thuộc địa Tây Ban Nha. Nền kinh
tế thế giới đã phồn thịnh bột phát trong nửa sau của thế kỷ mười chín, và những
đổi mới sáng tạo trong giao thông như tàu hơi nước và đường sắt đã dẫn đến sự
mở rộng to lớn của thương mại quốc tế. Làn sóng này của toàn cầu hóa đã có
nghĩa rằng các nước giàu tài nguyên như Mexico – hay, chính xác hơn elite ở
các nước như vậy – đã có thể làm giàu chính mình bằng xuất khẩu các nguyên liệu
thô và các tài nguyên thiên nhiên cho Bắc Mỹ hay Châu Âu đang công nghiệp hóa.
Díaz và những cánh hẩu của ông đã thấy mình trong một thế giới khác và đang
phát triển nhanh. Họ đã nhận ra rằng Mexico cũng phải thay đổi. Nhưng
điều này đã không có nghĩa là nhổ cả rễ các thể chế thuộc địa và thay thế chúng
bằng các thể chế giống như các thể chế ở Hoa Kỳ. Thay vào đó, sự thay đổi của
họ đã là sự thay đổi “phụ thuộc vào con đường – path dependent” chỉ dẫn đến pha
tiếp theo của các thể chế đã làm cho phần lớn Mỹ Latin nghèo và bất bình đẳng
rồi.
Toàn cầu hóa đã làm cho các vùng bỏ ngỏ bao la
của châu Mỹ, “các vùng biên cương mở-open frontiers” của nó, có giá trị. Thường
các vùng biên cương này đã chỉ trống một cách huyền thoại, vì những người bản
địa đã ở đó và họ đã bị truất quyền sở hữu một cách tàn nhẫn. Dẫu sao, sự tranh
cướp các tài nguyên có giá trị mới này đã là một quá trình định rõ của châu Mỹ
trong nửa sau của thế kỷ mười chín. Sự mở ra đột ngột của vùng biên cương có
giá trị này đã không dẫn đến các quá trình tương tự ở Hoa Kỳ và Mỹ Latin, mà đã
dẫn đến sự phân kỳ thêm, được định hình bởi những sự khác biệt thể chế hiện
tồn, đặc biệt là những khác biệt liên quan đến ai có cơ hội có đất. Ở Hoa Kỳ,
một chuỗi dài các hành động lập pháp, từ Sắc lệnh Đất năm 1785 đến Luật Trang
ấp 1862, đã cho sự tiếp cận rộng rãi đến đất biên cương. Tuy những người bản
địa đã bị cho ra ngoài lề, việc này đã tạo ra một vùng biên cương bình đẳng và
năng động về mặt kinh tế. Trong hầu hết các nước Mỹ Latin, tuy vậy, các thể chế
chính trị ở đó đã tạo ra kết quả rất khác. Đất vùng biên cương đã được phân cho
những người có thế lực chính trị và những người giàu có và có các mối quan hệ,
làm cho những người như vậy thậm chí hùng mạnh hơn.
Díaz cũng đã bắt đầu dỡ bỏ nhiều di sản thể
chế thuộc địa cụ thể, cản trở thương mại quốc tế, mà ông thấy trước sẽ làm cho
ông và những người ủng hộ ông giàu hơn rất nhiều. Mô hình của ông, tuy vậy, vẫn
tiếp tục không phải là kiểu phát triển kinh tế mà chúng ta thấy ở phía bắc Rio
Grandes mà là kiểu của Cortés, Pizzaro, và de Toledo, nơi elite trở nên rất
giàu có trong khi những người còn lại bị loại trừ. Khi elite đầu tư, nền kinh
tế tăng trưởng một chút, nhưng sự tăng trưởng như vậy luôn luôn dẫn đến thất vọng.
Nó cũng đã xảy ra với sự trả giá của những người thiếu các quyền trong trật tự
mới này, như những người Yaqui ở Sonora, trong vùng nội địa xa của Nogales.
Giữa 1900 và 1910, có lẽ ba mươi ngàn người Yaqui đã bị lưu đày, về bản chất bị
bắt làm nô lệ, bị tống đi lao động ở các đồn điền henequen [cây thùa sợi] ở
Yucatán. (Sợi cây henequen đã là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị, vì nó có
thể được dùng để làm dây thừng và dây bện). Sự dai dẳng kéo dài vào thế kỷ hai
mươi của một hình mẫu thể chế đặc thù không thân thiện với tăng trưởng ở Mexico
và Mỹ Latin được minh họa rõ bởi sự thực rằng, hệt như trong thế kỷ mười chín,
hình mẫu đã gây ra trì trệ kinh tế và bất ổn chính trị, các cuộc nội chiến và
đảo chính, khi các phe nhóm tranh giành nhau vì các lợi ích quyền lực. Díaz
cuối cùng đã mất quyền lực cho các lực lượng cách mạng trong năm 1910. Cuộc
Cách mạng Mexic được tiếp theo bởi các cuộc cách mạng khác ở Bolivia năm 1952,
ở Cuba năm 1959, và Nicaragua năm 1979. Trong lúc đó, các cuộc nội chiến kéo
dài đã nổ ra ở Columbia, El Salvador, Guatemala, và Peru. Sự chiếm đoạt hay sự
đe dọa chiếm đoạt tài sản vẫn tiếp tục mau lẹ, với các cuộc cải cách nông
nghiệp hàng loạt (hay các cuộc cải cách được thử) ở Bolivia, Brazil, Chile,
Columbia, Guatemala, Peru, và Venezuela. Các cuộc cách mạng, những sự chiếm
đoạt và bất ổn chính trị đã đến cùng với các chính phủ quân sự và các chế độ
độc tài thuộc nhiều loại. Tuy cũng đã có một sự trôi dạt từ từ hướng về các
quyền chính trị rộng lớn hơn, nhưng chỉ đến các năm 1990 thì hầu hết các nước
Mỹ Latin mới trở thành các nền dân chủ, và thậm chí khi đó chúng vẫn sa lầy
trong bất ổn.
Sự bất ổn này đã đi cùng với sự đàn áp và giết
người hàng loạt. Báo cáo [của] Ủy ban Quốc gia cho Chân lý và Hòa giải năm 1991
ở Chile đã xác định rằng 2.279 người đã bị giết vì các lý do chính trị trong
chế độ độc tài Pinochet giữa 1973 và 1990. Có lẽ 50.000 đã bị bỏ tù và tra tấn,
và hàng trăm ngàn người đã bị đuổi việc. Báo cáo [của] Ủy ban Guatemalan về Làm
rõ Lịch sử trong năm 1999 đã nhận diện được tổng cộng 42.275 nạn nhân có tên,
tuy những người khác đã cho rằng có đến 200.000 đã bị giết ở Guatemala giữa
1962 và 1996, 70.000 trong thời chế độ của Tướng Efrain Ríos Montt, kẻ đã có
khả năng phạm các tội ác này mà không bị trừng phạt đến mức hắn ta đã có thể
ứng cử tổng thống trong năm 2003; rất may là hắn đã không trúng cử. Ủy ban Quốc
gia về Người Mất tích ở Argentina
đã đưa ra số người bị quân đội ở đó giết từ 1976 đến 1983 là 9.000 người, mặc
dù nó lưu ý rằng con số thật có thể cao hơn. (Các ước lượng của các tổ chức
nhân quyền thường đưa ra con số 30.000).
KIẾM MỘT HAY HAI TỶ
Những hệ lụy kéo dài của tổ chức xã hội thuộc
địa, và của các di sản của các xã hội đó, định hình những sự khác biệt hiện đại
giữa Hoa Kỳ và Mexico, và như thế giữa hai phần của Nogales. Sự tương phản giữa
Bill Gates và Carlos Slim đã trở thành hai người giàu nhất thế giới thế nào –
Warren Buffett cũng là một đối thủ – minh họa các lực lượng đang tác động. Sự
thăng tiến của Bill Gates ai cũng biết, nhưng địa vị của Gates với tư cách
người giàu nhất thế giới và nhà sáng lập của một trong những công ty đối mới
sáng tạo nhất về mặt công nghệ đã không ngăn cản Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đệ trình các
vụ kiện dân sự chống lại Công ty Microsoft ngày 8-5-1998, cho rằng Microsoft đã
lạm dụng sức mạnh độc quyền. Đặc biệt gây tranh cãi là cách mà Microsoft đã gắn
Web broser (trình duyệt mạng) của nó, Internet Explore, vào hệ điều hành
Windows. Chính phủ đã để mắt đến Gates trong thời gian khá dài, và ngay từ
1991, Ủy Ban Thương mại Liên bang đã lao vào một cuộc điều tra xem liệu
Microsoft đã có lạm dụng sự độc tài của nó về hệ điều hành máy tính cá nhân hay
không. Tháng Mười một 2001, Microsoft đã đạt một thỏa thuận với Bộ Tư pháp. Các
cánh của nó đã bị cắt bớt cho dù các khoản tiền phạt đã thấp hơn mức nhiều
người đã đòi.
Ở Mexico , Carlos Salem đã không kiếm
tiền bằng đổi mới sáng tạo. Lúc đầu ông ta đã trội hơn về các giao dịch chứng
khoán, và về mua và tân trang các hãng không có lời. Phi vụ lớn của ông ta đã
là việc thôn tính Telmex, công ty viễn thông độc quyền của Mexico được
Tổng thống Carlos Salinas tư nhân nhóa năm 1990. Chính phủ đã công bố ý định
của mình về bán 51 phần trăm của cổ phiếu được bầu (chiếm 20,4 phần trăm của
tổng số cổ phiếu) trong công ty vào tháng 9-1989 và đã nhận được các giá đặt
mua vào tháng 11-1990. Cho dù Carlos Salem đã không đặt giá cao nhất,
consortium dẫn đầu bởi Grupo Corso của ông đã thắng thầu. Thay cho việc trả
tiền ngay cho các cố phiếu, Salim đã dàn xếp được việc thanh toán chậm, sử dụng
cổ tức của bản thân Telmex để trả cho cổ phiếu. Cái từng là độc quyền nhà nước
nay đã trở thành độc quyền của Salim, và nó đã sinh lợi khổng lồ.
Các thể chế kinh tế, mà đã biến Carlos Salim
thành người là ông ta, là rất khác với các thể chế ở Hoa Kỳ. Nếu bạn là một
doanh nhân khởi nghiệp ở Mexico ,
các rào cản gia nhập đóng một vai trò quyết định tại mọi giai đoạn của sự
nghiệp của bạn. Các rào cản này bao gồm các giấy phép đắt tiền mà bạn phải kiếm
được, tệ quan liêu mà bạn phải vượt qua, các chính trị gia và những người đang ở
trong ngành đứng cản đường bạn, và sự khó khăn để kiếm được tài trợ từ một khu
vực tài chính mà thường móc ngoặc với những người đang trong ngành mà bạn thử
cạnh tranh với. Các rào cản này hoặc có thể là không thể vượt qua được, ngăn
không cho bạn vào các lĩnh vực sinh lợi, hay là chiến hữu lớn nhất của bạn, giữ
không cho các đối thủ cạnh tranh của bạn đến gần. Sự khác biệt giữa hai kịch
bản, tất nhiên, là, bạn biết ai và có thể ảnh hưởng đến ai – và phải, bạn có
thể đút lót ai. Carlos Slim, một người có tài, có tham vọng, từ một nền tảng
tương đối khiêm tốn của những người nhập cư Liban, đã là một bậc thầy về nhận
được các hợp đồng độc quyền; ông đã tìm được cách để độc chiếm thị trường viễn
thông béo bở ở Mexico, và sau đó mở rộng tầm với của ông ra phần còn lại của Mỹ
Latin.
Đã có những thách thức đối với độc quyền
Telmex của Salim. Nhưng chúng đã không thành công. Năm 1996 Avantel, nhà cung
cấp dịch vụ điện thoại đường dài, đã đưa kiến nghị lên Ủy ban Cạnh tranh Mexic
để kiểm tra xem liệu Telmex đã có một vị thế thống trị thị trường viễn thông
hay không. Năm 1997, Ủy ban đã tuyên bố rằng Telmex đã có quyền lực độc quyền
thật về điện thoại nội hạt, các cuộc gọi đường dài quốc gia, và các cuộc gọi
đường dài quốc tế, giữa những thứ khác. Nhưng các nỗ lực của các nhà chức trách
điều tiết ở Mexico
để hạn chế các độc quyền này đã không đi đến đâu cả. Một lý do là, Slim và
Telmex có thể sử dụng cái được biết đến như một recurso
de amparo, theo nghĩa đen là một “sự kháng án để bảo vệ”. Một amparo thực ra là một đơn để lập luận rằng
một luật cá biệt không áp dụng đối với bạn. Ý tưởng về amparo truy nguyên về hiến pháp Mexic
năm 1857 và khởi đầu được dự định như một sự bảo vệ các quyền cá nhân và các
quyền tự do. Trong tay của Telmex và các độc quyền Mexic khác, tuy vậy, nó lại
biến thành một công cụ kinh khủng để thắt chặt quyền lực độc quyền. Thay cho
bảo vệ các quyền của người dân, amparo lại
cung cấp một kẽ hở trong tính bình đẳng trước pháp luật.
Slim đã kiếm được tiền trong nền kinh tế Mexic
phần nhiều nhờ các mối quan hệ chính trị của ông. Khi đánh bạo sang Hoa Kỳ kinh
doanh, ông đã không thành công. Năm 1999, Grupo Curso của ông đã mua hãng bán
lẻ máy tính CompUSA. Khi đó CompUSA đã cấp đặc quyền kinh tiêu cho một hãng
được gọi là COC Services để bán hàng hóa của nó ở Mexico . Slim ngay lập tức vi phạm
hợp đồng [kinh tiêu] này với ý định lập chuỗi cửa hàng riêng của ông, mà không
có bất cứ sự cạnh tranh nào từ COC. Nhưng COC đã kiện CompUSA tại một Tòa án ở Dallas . Không có amparo ở Dallas , cho nên Slim đã thua, và đã bị phạt
454 triệu USD. Luật sư cho COC, Mark Werner sau này đã lưu ý rằng “thông điệp
của bản án này là, trong nền kinh tế toàn cầu này các hãng phải tôn trọng các
quy tắc của Hoa Kỳ nếu chúng muốn đến đây”. Khi Slim phải chịu các thể chế của
Hoa Kỳ, các chiến thuật thông dụng của ông để kiếm tiền đã không có kết quả.
HƯỚNG TỚI MỘT LÝ THUYẾT VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG THẾ
GIỚI
Chúng ta sống trong một thế giới bất bình
đẳng. Những sự khác biệt giữa các quốc gia là gống như những khác biệt giữa hai
phần của Nogales ,
chỉ trên quy mô lớn hơn. Trong các nước giàu, các cá nhân khỏe mạnh hơn, sống
lâu hơn, và được giáo dục tốt hơn nhiều. Họ cũng có sự tiếp cận đến một loạt
các tiện nghi và lựa chọn trong đời sống, từ các kỳ nghỉ đến các con đường sự
nghiệp, mà người dân ở các nước nghèo chỉ có thể mơ đến. Người dân các nước
giàu cũng lái xe trên các đường không có ổ gà, và có nhà vệ sinh, điện, và nước
máy trong nhà của họ. Họ cũng thường có các chính phủ không bắt giữ hay sách
nhiễu họ một cách tùy tiện; ngược lại, các chính phủ cung cấp các dịch vụ, kể
cả giáo dục, chăm sóc sức khỏe, đường sá, luật và trật tự. Cũng đáng chú ý là
sự thực rằng các công dân bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử và có tiếng nói nào đó
về hướng chính trị mà nước họ chấp nhận.
Những khác biệt to lớn trong bất bình đẳng thế
giới là hiển nhiên đối với mọi người, ngay cả đối với những người ở các nước
nghèo, tuy họ có thể thiếu truy cập đến truyền hình hay Internet. Chính sự nhận
thức và thực tế về những khác biệt này thúc đẩy người dân để vượt Rio Grande hay Địa Trung
Hải một cách bất hợp pháp để có cơ hội trải nghiệm mức sống và các cơ hội của
nước giàu. Tính bất bình đẳng này không chỉ có các hậu quả đối với cuộc sống
của từng con người trong các nước nghèo; nó cũng gây ra nỗi bất bình và oán
giận với những hậu quả chính trị khổng lồ ở Hoa Kỳ và những nơi khác. Hiểu vì
sao những khác biệt này tồn tại và cái gì gây ra chúng là tiêu điểm của chúng
ta trong cuốn sách này. Phát triển một sự hiểu biết như vậy không chỉ là một
mục đích tự thân, mà cũng là một bước đầu tiên hướng tới việc tạo ra các ý
tưởng tốt hơn về làm thế nào để cải thiện đời sống của hàng tỷ người vẫn sống
trong nghèo khổ.
Những sự chênh lệch ở hai bên hàng rào ở
Nagales chỉ là chóp đỉnh của tảng băng. Như trong phần còn lại của bắc Mexico,
mà được hưởng lợi từ trao đổi với Hoa Kỳ, cho dù không phải toàn bộ sự trao đổi
ấy là hợp pháp, cư dân của Nogales thịnh vượng hơn những người Mexic khác, mà
thu nhập hộ gia đình bình quân hàng năm là khoảng 5.000 USD. Sự thịnh vượng
tương đối lớn hơn này của Nogales, Sonora, đến từ các nhà máy gia công
maquiladora [ăn hoa hồng: nhập bộ phận, chế tác và tái xuất thành phẩm mà không
phải chịu bất cứ loại thuế nào] tập trung trong các khu công nghiệp, mà khu đầu
tiên đã được thành lập bởi Richard Campbell, Jr., một nhà sản xuất giỏ ở
California. Người thuê đầu tiên đã là Coin-Art, một công ty dụng cụ âm nhạc
được sở hữu bởi Richard Bosse, chủ sở hữu của công ty sáo và saxophone Artley ở
Nogales, Arizona. Tiếp sau Coin-Art đã là Memorex (đi dây máy tính); Avent
(quần áo bệnh viện); Grant (kính râm); Chamberlain (một nhà sản xuất dụng cụ mở
cửa gara cho [nhà bán lẻ] Sears); và Samsonite (va ly). Đáng kể, tất cả đều là
các doanh nghiệp và doanh nhân có cơ sở ở Hoa Kỳ, sử dụng vốn và know-how Hoa
Kỳ. Sự thịnh vượng lớn hơn của Nogales, Sonora, tương đối so với phần còn lại
của Mexico, vì thế, đến từ bên ngoài.
Những khác biệt giữa Hoa Kỳ và Mexico , đến
lượt, là nhỏ so với những khác biệt khắp toàn cầu. Công dân trung bình của Hoa
Kỳ thịnh vượng bằng bảy lần công dân Mexic trung bình, bằng hơn mười lần cư dân
của Peru hay Trung Mỹ. Khoảng bằng hai mươi lần của dân cư trung bình ở châu
Phi hạ-Sahara, và gần bằng bốn mươi lần của những người sống trong các nước Phi
châu nghèo nhất như Mali, Ethiopia, và Sierra Leone. Có một nhóm nhỏ nhưng ngày
càng tăng của các nước giàu – hầu hết ở châu Âu và Bắc Mỹ, với sự gia nhập của
Australia, Nhật Bản, New Zealand, Singapore, Nam Hàn, và Đài Loan – mà các công
dân của nó được hưởng cuộc sống rất khác với cuộc sống của cư dân của phần còn
lại của địa cầu.
Lý do mà Nogales, Arizona, giàu hơn nhiều so
với Nogales, Sonora, là đơn giản; chính bởi vì các thể chế rất khác nhau ở hai
bên biên giới, mà các thể chế đó tạo ra những khuyến khích rất khác nhau cho cư
dân của Nogales, Arizona, đối lại Nogales, Sonora. Hoa Kỳ ngày nay cũng giàu
hơn hoặc Mexico hay Peru rất nhiều bởi vì cách các thể chế kinh tế và chính trị
của nó định hình các khuyến khích của các doanh nghiệp, các cá nhân, và các
chính trị gia. Mỗi xã hội vận hành với một tập các quy tắc kinh tế và chính trị
được tạo ra và được thực thi bởi nhà nước và các công dân một cách cùng nhau.
Các thể chế kinh tế định hình các khuyến khích kinh tế: các khuyến khích để trở
thành người có học, để tiết kiệm và đầu tư, để đổi mới và làm theo các công
nghệ mới, và vân vân. Chính quá trình chính trị là cái xác định các thể chế
kinh tế nào mà nhân dân sống dưới, và chính các thể chế chính trị là cái xác
định quá trình này hoạt động ra sao. Thí dụ, các thể chế chính trị của một quốc
gia xác định khả năng của các công dân để kiểm soát các chính trị gia và ảnh
hưởng đến việc họ ứng xử thế nào. Việc này, đến lượt nó, lại xác định liệu các
chính trị gia có là các đại diện, mặc dù không hoàn hảo, của các công dân, hay
họ có thể lạm dụng quyền lực được ủy thác cho họ, hay họ đã chiếm đoạt, để tích
lũy gia tài riêng của họ và để theo đuổi các chương trình nghị sự riêng của họ,
mà chúng có hại cho các thứ đó của công dân. Các thể chế chính trị bao gồm
nhưng không bị hạn chế ở các hiến pháp thành văn, và ở chỗ liệu xã hội có là
nền dân chủ hay không. Nó bao gồm quyền lực và năng lực của nhà nước để điều
tiết và cai trị xã hội. Cũng cần thiết để xem xét rộng rãi hơn các nhân tố xác
định quyền lực chính trị được phân bố thế nào trong xã hội, đặc biệt là khả
năng của các nhóm khác nhau để hành động một cách tập thể nhằm theo đuổi các
mục tiêu của họ hay để ngăn chặn những người khác khỏi theo đuổi các mục tiêu
của họ.
Vì các thể chế ảnh hưởng đến ứng xử và các
khuyến khích trong cuộc sống thực, chúng tạo ra sự thành công hay sự thất bại
của các quốc gia. Tài năng cá nhân là quan trọng ở mọi mức của xã hội, nhưng
ngay cả cái đó cũng cần một khung khổ thể chế để biến nó thành một lực tích
cực. Bill Gates, giống như các nhân vật thần kỳ khác trong nghành công nghệ
thông tin (như Paul Alen, Steve Ballmer, Steve Jobs, Larry Page, Sergey Brin,
và Jeff Bezos), đã có tài năng và khát vọng rất lớn. Nhưng cuối cùng ông đáp
lại các khuyến khích. Hệ thống giáo dục tại trường ở Hoa Kỳ đã cho phép Gates
và những người khác giống ông để có được một tập duy nhất các kỹ năng để bổ
sung cho tài năng của họ. Các thể chế kinh tế ở Hoa Kỳ đã cho phép những người
này thành lập các công ty dễ dàng, mà không phải đối mặt với các rào cản không
thể vượt qua nổi. Các thể chế đó cũng khiến cho việc cấp tài chính cho các dự
án của họ có thể thực hiện được. Các thị trường lao động Hoa Kỳ đã cho phép họ
thuê nhân viên có trình độ, và môi trường thị trường tương đối cạnh tranh đã
cho phép họ mở rộng các công ty của họ và bán các sản phẩm của họ trên thị
trường. Các doanh nhân khởi nghiệp này đã tự tin ngay từ đầu rằng các dự án ước
mơ của họ có thể được thực hiện: họ đã tin vào các thể chế và nền pháp trị mà
các thể chế này đã tạo ra và họ đã không phải lo lắng về sự an toàn của các
quyền tài sản của họ. Cuối cùng, các thể chế chính trị đã đảm bảo sự ổn định và
tính liên tục. Trước hết, chúng làm cho chắc chắn rằng không có rủi ro nào về
một kẻ độc tài lên nắm quyền và thay đổi các quy tắc của trò chơi, tước đoạt
của cải của họ, bỏ tù họ, hay đe dọa đời sống và sinh kế của họ. Chúng cũng làm
cho chắc chắn rằng không lợi ích cá biệt nào trong xã hội có thể làm chính phủ
thiên lệch theo một hướng tai hại về mặt kinh tế, bởi vì quyền lực chính trị cả
bị hạn chế lẫn được phân bố đủ rộng sao cho một tập các thể chế kinh tế tạo ra
các khuyến khích cho sự thịnh vượng có thể nổi lên.
Cuốn sách này sẽ chứng tỏ rằng các thể chế
kinh tế là cốt yếu cho việc xác định liệu một nước là nghèo hay giàu, chính trị
và các thể chế chính trị là cái quyết định một nước có các thể chế kinh tế nào.
Cuối cùng các thể chế kinh tế tốt của Hoa Kỳ đã là kết quả của các thể chế
chính trị mà đã nổi lên dần dần sau 1619. Lý thuyết của chúng ta về sự bất bình
đẳng thế giới cho thấy các thể chế chính trị và kinh tế tương tác với nhau thế
nào trong việc gây ra sự nghèo khổ và sự thịnh vượng, và các phần khác nhau của
của thế giới kết thúc ra sao với các tập khác nhau đến vậy của các thể chế. Sự
xem xét ngắn gọn của chúng ta về lịch sử châu Mỹ bắt đầu cho một cảm giác về
các lực định hình các thể chế chính trị và kinh tế. Các hình mẫu khác nhau của
các thể chế ngày nay bén rễ sâu vào quá khứ bởi vì một khi xã hội được tổ chức
theo một cách cá biệt, điều này có xu hướng tồn tại dai dẳng. Chúng ta sẽ chứng
tỏ rằng sự thực này đến từ cách mà các thể chế chính trị và kinh tế tương tác
với nhau.
Sự tồn tại dai dẳng này và các lực lượng tạo
ra nó cũng giải thích vì sao lại khó đến vậy để loại bỏ sự bất bình đẳng thế
giới và để làm cho các nước nghèo thịnh vượng. Tuy các thể chế là chìa khóa cho
các khác biệt giữa hai Nogales và giữa Hoa Kỳ và
Mexico , điều đó không có
nghĩa rằng sẽ có sự đồng thuận ở Mexico để thay đổi các thể chế.
Không có sự tất yếu nào đối với một xã hội để phát triển các thể chế tốt nhất
cho tăng trưởng kinh tế hay cho phúc lợi của các công dân của nó, bởi vì các
thể chế khác có thể thậm chí còn tốt hơn cho những người kiểm soát chính trị và
các thể chế chính trị. Những kẻ có quyền thế lớn và những người còn lại của xã
hội thường không đồng ý về tập nào của các thể chế nên giữ nguyên và tập nào
phải thay đổi. Carlos Slim sẽ không vui sướng để thấy các mối quan hệ chính trị
của ông biến mất và các rào cản gia nhập bảo vệ các doanh nghiệp của ông xẹp
xuống – không quan trọng rằng sự gia nhập của các doanh nghiệp mới sẽ làm giàu hàng
triệu người Mexic. Bởi vì không có sự đồng thuận như vậy, việc xã hội kết thúc
với các quy tắc nào được quyết định bởi chính trị: ai có quyền lực và quyền lực
này có thể được sử dụng thế nào. Carlos Slim có quyền lực để có được cái ông ta
muốn. Quyền lực của Bill Gates bị hạn chế hơn rất nhiều. Đó là vì sao lý thuyết
của chúng ta không chỉ là về kinh tế học mà cũng về chính trị học. Nó là về các
tác động của các thể chế lên thành công hay thất bại của các quốc gia – như thế
là kinh tế học về nghèo khó và thịnh vượng; nó cũng là về các thể chế được xác
định và thay đổi thế nào theo thời gian, và chúng thất bại ra sao để thay đổi
ngay cả khi chúng tạo ra sự nghèo khó và khốn khổ cho hàng triệu người – như
thế là chính trị học về nghèo khó và thịnh vượng.
2. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG
Congo ngày nay là một thí dụ cực đoan, với sự
vô luật pháp và các quyền tài sản rất không an toàn. Tuy vậy, trong hầu hết
trường hợp sự cực đoan như vậy không phục vụ cho lợi ích của elite, vì nó sẽ
phá hủy tất cả các khuyến khích kinh tế và tạo ra ít nguồn lực để khai thác.
Luận đề trung tâm của cuốn sách này là, tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng
gắn với các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm, trong khi các thể chế khai
thác dẫn đến sự trì trệ và nghèo khó. Nhưng điều này không ngụ ý rằng các thể
chế khai thác chẳng bao giờ có thể tạo ra tăng trưởng, cũng chẳng ngụ ý rằng
tất cả các thể chế khai thác được tạo ra bằng nhau.
ĐỊA
HÌNH ĐỊA VẬT [TÌNH HÌNH]
TIÊU ĐIỂM CỦA cuốn sách của chúng ta là giải thích sự bất bình
đẳng thế giới và cả một vài hình mẫu rộng có thể nhìn thấy dễ dàng ẩn núp bên
trong nó. Nước đầu tiên trải qua sự tăng trưởng kinh tế bền vững đã là nước Anh
– hay Vương quốc Anh, hay đơn giản là Anh, với tư cách liên hiệp của nước Anh,
xứ Wales và Scotland được
biết đến sau 1707.
Sự tăng trưởng đã nổi lên chậm trong nửa thứ hai của thế kỷ mười
tám như Cách mạng Công nghiệp dựa trên các đột phá công nghệ chủ yếu và sự áp
dụng chúng vào công nghiệp, đã bén rễ. Mau chóng tiếp sau công nghiệp hóa ở Anh
đã là công nghiệp hóa ở phần lớn của Tây Âu và Hoa Kỳ. Sự thịnh vượng Anh cũng
đã nhanh chóng lan sang các “thuộc địa định cư” của Anh là Canada, Australia,
New Zealand. Một danh sách của ba mươi nước giàu bao gồm chúng, thêm Nhật Bản , Singapore ,
và Nam Hàn. Sự thịnh vượng của ba nước sau, đến lượt nó, là phần của một hình
mẫu lớn hơn trong đó nhiều quốc gia Đông Á, bao gồm cả Đài Loan và sau đó Trung
Quốc, đã trải qua sự tăng trưởng nhanh mới đây.
Đáy của phân bố thu nhập thế giới vẽ một bức tranh sắc nét và đặc
biệt dễ nhận ra như bức tranh trên đỉnh. Nếu thay vào đó bạn đưa ra một danh
sách ba mươi nước nghèo nhất trên thế giới ngày nay, bạn thấy chúng hầu như tất
cả ở châu Phi hạ-Sahara. Gia nhập với chúng là các nước như Afghanistan, Haiti,
và Nepal, mà, tuy chúng không ở châu Phi, tất cả đều có chung cái gì đó cốt yếu
với các quốc gia Phi châu, như chúng ta sẽ giải thích. Nếu lui lại năm mươi
năm, Singapore và Nam Hàn đã không ở giữa các nước giàu nhất, và đã có nhiều
nước khác trong số ba mươi nước dưới đáy, nhưng bức tranh tổng thể vẫn nhất
quán một cách nổi bật với bức tranh chúng ta thấy ngày nay. Quay lại một trăm,
hay một trăm năm mươi năm, bạn thấy gần như cùng các nước trong cùng nhóm.
Bản đồ 3 cho thấy tình hình (thế đất) trong năm 2008. Các nước
được tô màu đen đậm nhất là các nước nghèo nhất trên thế giới, mà thu nhập
trung bình đầu người của chúng (được các nhà kinh tế học gọi là GDP, tổng sản
phẩm quốc nội) là dưới 2.000 USD một năm. Hầu hết các nước Phi châu có màu này,
như Afghanistan , Haiti và các
phần của Đông Nam Á (thí dụ, Campuchia và Lào). Bắc Triều Tiên [Bắc Hàn] cũng
thuộc nhóm nước này. Các nước có màu trắng là các nước giàu nhất, mà thu nhập
trung bình đầu người hàng năm là 20.000 USD hay nhiều hơn. Ở đây chúng ta thấy
các nước tình nghi quen thuộc: Bắc Mỹ, Tây
Âu , Australia
và Nhật Bản.
Một hình mẫu lý thú khác có thể được nhận rõ ở châu Mỹ. Lập một
danh sách các quốc gia ở châu Mỹ từ giàu nhất đến nghèo nhất. Bạn sẽ thấy rằng
ở trên đỉnh là Hoa Kỳ và Canada, theo sau là Chile, Argentina, Brazil, Mexico,
và Uruguay, và có lẽ cả Venezuela, tùy thuộc vào giá dầu. Sau đó bạn có Colombia , Cộng hòa Dominic, Equador, và Peru . Tại đáy,
có một nhóm khác, tách biệt, nghèo hơn nhiều, gồm Bolivia ,
Guatemala , và Paraguay . Quay
lại năm mươi năm, bạn thấy một sự xếp hạng giống hệt. Quay lại một trăm năm:
vẫn thế. Một trăm năm mươi năm: lại vẫn thế. Như thế không chỉ là, Hoa Kỳ và Canada là giàu
hơn Mỹ Latin; cũng có một sự phân chia rõ ràng và dai dẳng giữa các quốc gia
giàu và nghèo bên trong châu Mỹ.
Một hình mẫu lý thú cuối cùng là ở Trung Đông. Ở đó chúng ta thấy
các quốc gia giàu-dầu như Saudi Arabia
và Kuwait ,
mà có mức thu nhập gần với mức của ba mươi nước trên đỉnh. Thế nhưng nếu giá
dầu sụt, họ sẽ nhanh chóng rớt xuống bảng. Các nước Trung Đông với ít hay không
có dầu, như Ai Cập, Jordan, và Syria, tất cả đều tụm quanh một mức thu nhập
tương tự như thu nhập của Guatemala hay Peru. Không có dầu, các nước Trung Đông
tất cả cũng nghèo, tuy, giống các nước ở Trung Mỹ và vùng Andes, chứ không
nghèo như các nước ở châu Phi hạ-Sahara.
Trong khi có nhiều sự dai đẳng trong hình mẫu thịnh vượng mà
chúng ta thấy quanh mình ngày nay, các hình mẫu này không phải là không thay
đổi hay không thể thay đổi được. Thứ nhất, như chúng ta đã nhấn mạnh rồi, hầu
hết sự bất bình đẳng thế giới hiện hành đã nổi lên từ cuối thế kỷ mười tám, là
kết quả của các giai đoạn chót của Cách mạng Công nghiệp. Các khoảng cách về
thịnh vượng đã không chỉ nhỏ hơn nhiều, [vào thời điểm] mãi đến giữa thế kỷ
mười tám, nhưng những sự xếp hạng mà đã hết sức ổn định từ khi đó là không như
nhau khi chúng ta lùi xa hơn trong lịch sử. Thí dụ, ở châu Mỹ, sự xếp hạng mà chúng
ta thấy trong một trăm năm mươi năm vừa qua là hoàn toàn khác xếp hạng năm trăm
năm trước. Thứ hai, nhiều quốc gia đã trải qua nhiều thập kỷ tăng trưởng nhanh,
ví dụ như phần lớn Đông Á từ Chiến tranh Thế giới II và, Trung Quốc gần đây
hơn. Rồi nhiều trong số các nước này đã thấy sự tăng trưởng đó bắt đầu đảo
ngược. Thí dụ, Argentina đã tăng trưởng nhanh trong năm thập kỷ cho đến 1920,
trở thành một trong những nước giàu nhất thế giới, nhưng sau đó đã bắt đầu
trượt dài. Liên Xô thậm chí còn là thí dụ đáng chú ý hơn, tăng trưởng nhanh
giữa 1930 và 1970, nhưng rồi đã trải qua một sự sụp đổ nhanh.
Cái gì giải thích những sự khác biệt lớn này về nghèo khó và thịnh
vượng và các hình mẫu tăng trưởng? Vì sao các quốc gia Tây Âu và các nhánh
thuộc địa của chúng đầy người định cư Âu châu bắt đầu tăng trưởng trong thế kỷ
mười chín, hầu như không nhìn lại? Cái gì giải thích sự xếp hạng dai dẳng về
bất bình đẳng ở bên trong châu Mỹ? Vì sao các quốc gia Phi châu hạ-Sahara và
Trung Đông đã không đạt kiểu tăng trưởng thấy ở Tây Âu, trong khi phần lớn Đông
Á đã trải nghiệm tốc độ tăng trưởng kinh tế quá nhanh dễ gây tai nạn?
Người ta có thể nghĩ là, sự thực rằng sự bất bình đẳng thế giới là
hết sức lớn và hợp logic và có các hình mẫu được vẽ sắc nét như vậy, thì có
nghĩa rằng nó có một sự giải thích được chấp nhận rộng rãi. Không phải vậy. Hầu
hết các giả thuyết mà các nhà khoa học xã hội đã đề xuất cho nguồn gốc của sự
nghèo khó và thịnh vượng đơn giản không hoạt động và không giải thích được tình
hình một cách thuyết phục.
GIẢ THUYẾT ĐỊA LÝ
Một lý thuyết được chấp nhận rộng rãi về các nguyên nhân của sự
bất bình đẳng thế giới là giả thuyết địa lý, mà nó cho rằng sự cách biệt
[divide] lớn giữa các nước giàu và nghèo được tạo ra bởi những khác biệt địa
lý. Nhiều nước nghèo, chẳng hạn như các nước ở châu Phi, Trung Mỹ, và Nam Á,
nằm ở vùng nhiệt đới giữa Hạ chí tuyến [Bắc chí tuyến: vĩ độ 23° 26' 22"
bắc] và Đông chí tuyến [Nam chí tuyến: vĩ độ 23° 26' 22" nam]. Ngược lại,
các nước giàu có xu hướng ở các vùng ôn đới. Sự tập trung mang tính địa lý này
của nghèo khó và thịnh vượng mang lại sự quyến rũ nông cạn cho giả thuyết địa
lý, mà là điểm xuất phát của các lý thuyết và quan điểm của nhiều nhà khoa học
xã hội và học giả uyên thâm tương tự. Nhưng điều này không làm cho nó ít sai
hơn.
Ngay từ cuối thế kỷ mười tám, nhà triết học chính trị Pháp vĩ đại
Montesquieu đã lưu ý đến sự tập trung mang tính địa lý của thịnh vượng và nghèo
khó, và đã đề xuất một sự giải thích cho nó. Ông cho rằng ở các vùng khí hậu
nhiệt đới người dân có xu hướng lười biếng và thiếu tính tò mò. Như một hệ quả,
họ không làm việc siêng năng và không đổi mới, và đấy là lý do vì sao họ nghèo.
Montesquieu cũng đã suy đoán rằng những người lười có xu hướng bị cai trị bởi
những kẻ bạo chúa, gợi ý rằng vị trí nhiệt đới có thể giải thích không chỉ sự
nghèo khó mà cả một số hiện tượng chính trị gắn với thất bại kinh tế, như chế
độ độc tài.
Lý thuyết rằng các nước nóng bức là nghèo một cách cố hữu, tuy mâu
thuẫn với sự tiến bộ kinh tế nhanh gần đây của các nước như Singapore,
Malaysia, Botswana, vẫn được biện hộ một cách mạnh mẽ bởi một số người, như nhà
kinh tế học Jeffrey Sachs. Phiên bản hiện đại của quan điểm này nhấn mạnh không
phải đến các ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu lên các nỗ lực làm việc hay quá
trình tư duy, mà đến hai lý lẽ bổ sung: thứ nhất, các bệnh nhiệt đới, nhất là
sốt rét, có các hậu quả rất có hại cho sức khỏe và vì thế cho năng suất lao
động; và thứ hai, đất nhiệt đới không cho phép nền nông nghiệp sinh lời. Kết
luận, tuy vậy, cũng thế: các vùng khí hậu ôn đới có lợi thế tương đối hơn các
vùng nhiệt đới và nửa nhiệt đới.
Sự bất bình đẳng thế giới, tuy vậy, không thể được giải thích bằng
khí hậu hay bệnh tật, hay bất cứ phiên bản nào của giả thuyết địa lý. Hãy chỉ
nghĩ về Nogales. Cái tách hai phần ra không phải là khí hậu, địa lý, hay môi
trường bệnh tật, mà là biên giới Hoa Kỳ-Mexico.
Nếu giả thuyết địa lý không thể giải thích nổi những khác biệt
giữa bắc và nam Nogales, hay Bắc và Nam Hàn, hay Đông và Tây Đức trước khi bức
Tường Berlin sụp đổ, liệu nó vẫn có thể là một lý thuyết hữu ích cho việc giải
thích những khác biệt giữa Bắc và Nam Mỹ? Giữa châu Âu và châu Phi? Hoàn toàn
không.
Lịch sử minh họa rằng không có mối quan
hệ đơn giản hay lâu dài giữa khí hậu hay địa lý và thành công kinh tế. Thí dụ,
không đúng rằng vùng nhiệt đới đã luôn luôn nghèo hơn các vùng ôn đới. Như
chúng ta đã thấy ở chương trước, vào thời Columbus chinh phục châu Mỹ, các vùng
nam Hạ Chí Tuyến và bắc Đông Chí Tuyến, mà hiện nay bao gồm Mexico, Trung Mỹ,
Peru và Bolivia, đã có hai nền văn minh lớn, văn minh Aztec và Inca. Các đế chế
này đã tập trung và phức tạp về mặt chính trị, đã xây dựng đường sá, và đã cung
cấp cứu trợ nạn đói. Những người Aztec đã có cả tiền lẫn chữ viết, và những
người Inca, cho dù họ thiếu cả hai công nghệ then chốt này, đã ghi lại các
lượng thông tin khổng lồ trên các dây được thắt nút, gọi là các quipu.
Ngược lại hoàn toàn, trong thời của những người Aztec và Inca, các vùng phía
bắc và phía nam của vùng người Aztec và Inca sinh sống, mà ngày nay bao gồm Hoa
Kỳ, Canada, Argentina, và Chile, đã hầu như chỉ có các nền văn minh Thời Đồ Đá
thiếu các công nghệ này. Vùng nhiệt đới ở châu Mỹ như thế đã giàu hơn các vùng
ôn đới rất nhiều, gợi ý rằng “sự thực hiển nhiên” về sự nghèo khó nhiệt đới đã
không hiển nhiên và cũng chẳng là một sự thực. Thay vào đó, sự giàu có lớn hơn
ở Hoa Kỳ và Canada thể hiện một sự đảo ngược hoàn toàn của sự phát đạt tương
đối với cái đã có ở đó khi những người Âu châu đến.
Sự đảo ngược này rõ ràng đã chẳng liên quan gì đến địa lý và, như
chúng ta đã thấy rồi, có liên quan gì đó với cách các vùng này bị thuộc địa
hóa. Sự đảo ngược này đã không giới hạn ở châu Mỹ. Người dân ở Nam Á, nhất là ở
tiểu lục địa Ấn Độ, và ở Trung Quốc đã thịnh vượng hơn những người ở nhiều phần
khác của châu Á, và chắc chắn hơn những người đã sống ở Australia và New
Zealand. Điều này, cũng đã đảo ngược, với Nam Hàn, Singapore, Nhật Bản nổi lên
như các quốc gia giàu nhất ở châu Á, và Australia và New Zealand vượt hầu như
tất cả châu Á về mặt thịnh vượng. Ngay cả bên trong châu Phi hạ-Sahara cũng đã
có một sự đảo ngược tương tự. Gần đây hơn, trước lúc bắt đầu của sự tiếp xúc Âu
châu mạnh mẽ với châu Phi, vùng nam châu Phi đã là vùng được định cư thưa thớt
nhất và chẳng hề có các nhà nước phát triển với bất cứ sự kiểm soát nào đối với
lãnh thổ của họ. Thế nhưng Nam Phi bây giờ là một trong các quốc gia thịnh
vượng nhất ở châu Phi hạ-Sahara. Lui xa hơn trong lịch sử, chúng ta lại thấy
nhiều thịnh vượng ở các vùng nhiệt đới; một số nền văn minh tiền-hiện đại, như
Angkor ở Campuchia hiện đại, Vijayanagara ở nam Ấn Độ, và Aksum ở Ethiopia, đã
hưng thịnh trong các vùng nhiệt đới, như các nền văn minh đại Lưu vực sông
Indus ở Mohenjo Daro và Hapara, ở Pakistan hiện đại, đã hưng thịnh. Như thế
lịch sử để lại ít sự nghi ngờ rằng không có mối quan hệ đơn giản giữa một địa
điểm nhiệt đới và thành công kinh tế.
Các bệnh nhiệt đới rõ ràng gây ra nhiều đau khổ và tỷ lệ tử vong
cao ở châu Phi, nhưng chúng không phải là lý do khiến châu Phi nghèo. Bệnh tật
phần lớn là hậu quả của nghèo khó và của các chính phủ không có khả năng hay
không muốn đảm trách các biện pháp y tế công cộng cần thiết để xóa bỏ chúng.
Nước Anh trong thế kỷ mười chín cũng đã là một nơi rất hại cho sức khỏe, nhưng
chính phủ đã đầu tư dần dần vào nước sạch, vào xử lý thích hợp chất thải và
nước thải, và, cuối cùng, vào một ngành chăm sóc sức khỏe hiệu quả. Sức khỏe và
ước tính tuổi thọ được cải thiện đã không là nguyên nhân của thành công kinh tế
của nước Anh, mà là một trong những thành quả của những thay đổi chính trị và
kinh tế trước đó. Cũng đúng thế với Nogales, Arizona.
Phần khác của giả thuyết địa lý là, các vùng nhiệt đới là nghèo
bởi vì nền nông nghiệp nhiệt đới là không sinh lợi một cách cố hữu. Đất nhiệt
đới mỏng và không có khả năng duy trì các chất dinh dưỡng, người ta lập luận,
và nhấn mạnh đất này bị xói mòn nhanh thế nào bởi mưa xối. Chắc chắn có giá trị
nào đó trong lý lẽ này, nhưng như chúng ta sẽ chứng tỏ, yếu tố quyết định chính
vì sao năng suất nông nghiệp – sản lượng nông nghiệp trên một mẫu – lại hết sức
thấp ở nhiều nước nghèo, đặc biệt ở châu Phi hạ-Sahara, ít liên quan đến chất
lượng đất. Đúng hơn, nó là một hậu quả của cấu trúc quyền sở hữu đất và các
khuyến khích mà được các chính phủ và các thể chế tạo ra cho các nông dân sống
dưới chúng. Chúng ta cũng sẽ chứng tỏ rằng sự bất bình đẳng thế giới không thể
được giải thích bằng những khác biệt về năng suất nông nghiệp. Sự bất bình đẳng
to lớn của thế giới hiện đại, mà đã nổi lên trong thế kỷ mười chín, đã là do sự
phổ biến không đều của các công nghệ công nghiệp và sự sản xuất chế tác gây ra.
Nó đã không được gây ra bởi sự khác biệt về thành tích nông nghiệp.
Một phiên bản khác có ảnh hưởng của giả thuyết địa lý đã được thúc
đẩy bởi nhà sinh thái học và sinh học tiến hóa Jared Diamond. Ông cho rằng
những nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa các lục địa vào lúc đầu của thời kỳ
hiện đại, năm trăm năm trước, đã dựa vào các nguồn lực lịch sử khác nhau về các
loài thực vật và động vật, mà sau đó đã ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp. Ở
một số nơi, như vùng Lưỡi liềm Màu mỡ ở Trung Đông hiện đại, đã có nhiều loài
mà con người đã có thể thuần hóa. Ở những nơi khác, như châu Mỹ, đã không có.
Có nhiều loài có khả năng được thuần hóa đã khiến cho rất hấp dẫn đối với các
xã hội để chuyển từ cách sống săn bắt-hái lượm sang cách sống canh tác [chăn
nuôi trồng trọt]. Như một hệ quả, việc canh tác đã phát triển sớm hơn ở vùng
Lưỡi liềm Màu mỡ so với ở châu Mỹ. Mật độ dân số tăng lên, cho phép sự chuyên
môn hóa lao động, thương mại, và đô thị hóa, và sự phát triển chính trị. Một
cách quyết định, ở những nơi canh tác nông nghiệp chiếm ưu thế, đổi mới công
nghệ đã diễn ra nhanh hơn các phần khác của thế giới rất nhiều. Như thế, theo
Diamond, sự sẵn có khác nhau của các loài thực vật và động vật đã tạo ra những
cường độ canh tác chênh lệch, mà đã dẫn đến các con đường khác nhau của thay
đổi công nghệ và sự thịnh vượng khắp các lục địa khác nhau.
Mặc dù luận đề của Diamod là một cách tiếp cận mạnh mẽ đến câu đố,
mà ông chú tâm vào, nó không thể được mở rộng để giải thích sự bất bình đẳng
thế giới hiện đại. Thí dụ, Diamond cho rằng người Tây Ban Nha đã có thể thống
trị các nền văn minh của châu Mỹ bởi vì họ đã có lịch sử canh tác dài hơn và vì
thế có công nghệ ưu việt hơn. Nhưng bây giờ chúng ta phải giải thích vì sao những
người Mexic và Peru sống trên lãnh thổ trước kia của người Aztec và Inca lại
nghèo. Trong khi có sự tiếp cận đến lúa mỳ, lúa mạch, và ngựa đã có thể khiến
cho những người Tây Ban Nha giàu hơn những người Inca, khoảng cách thu nhập
giữa họ đã không rất lớn. Thu nhập trung bình của một người Tây Ban Nha đã có
lẽ ít hơn hai lần thu nhập trung bình của một công dân trong Đế chế Inca. Luận
đề của Diamond ngụ ý rằng một khi những người Inca được tiếp xúc với tất cả các
loài và các công nghệ sinh ra từ đó mà bản thân họ đã không có khả năng phát
triển, thì họ phải nhanh chóng đạt được mức sống của người Tây Ban Nha. Thế
nhưng cái xảy ra đã hoàn toàn không như vậy. Ngược lại, trong các thế kỷ mười
chín và hai mươi, một khoảng cách lớn hơn nhiều về thu nhập giữa Tây Ban Nha và
Peru đã nổi lên. Ngày nay một người Tây Ban Nha trung bình giàu hơn người Peru
trung bình hơn sáu lần. Khoảng cách này về thu nhập gắn mật thiết với sự phổ
biến không đều của các công nghệ công nghiệp hiện đại, nhưng việc này ít liên
quan hoặc đến tiềm năng thuần hóa thực vật và động vật hay đến những khác biệt
năng suất nông nghiệp giữa Tây Ban Nha và Peru. Trong khi Tây Ban Nha, mặc dù
với một độ trễ, đã chấp nhận và làm theo các công nghệ sức hơi nước, đường sắt,
điện, cơ khí hóa, và sản xuất ở nhà máy, Peru đã không, hay nhiều nhất đã làm
vậy rất chậm chạp và không hoàn hảo. Khoảng cách công nghệ này ngày nay vẫn còn
và tự tái tạo trên một quy mô lớn hơn khi các công nghệ mới, đặc biệt các công
nghệ liên quan đến công nghệ thông tin, cấp nhiên liệu thêm cho sự tăng trưởng
ở nhiều quốc gia phát triển và một số quốc gia đang phát triển. Luận đề của
Diamond không nói cho chúng ta vì sao những công nghệ cốt yếu này không lan
truyền và làm ngang bằng thu nhập trên thế giới và không giải thích được vì sao
nửa phía bắc của Nogales lại giàu hơn rất nhiều nửa sinh đôi của nó nằm ngay ở
phía nam hàng rào, mặc dù cả hai đã là phần của cùng nền văn minh năm trăm năm
trước.
Câu chuyện của Nogales làm nổi bật một vấn đề lớn khác trong thích
nghi luận đề của Diamond: như chúng ta đã thấy, dù những hạn chế của các đế chế
Inca và Aztec vào năm 1532 đã thế nào, không nghi ngờ gì Peru và Mexico đã giàu
hơn các phần của châu Mỹ mà đã trở thành Hoa Kỳ và Canada. Bắc Mỹ đã trở nên
thịnh vượng hơn chính xác là bởi vì nó đã nhiệt tình chấp nhận các công nghệ và
những tiến bộ của Cách mạng Công nghiệp. Dân cư trở nên có giáo dục, đường sắt
trải khắp các Bình nguyên Lớn, hoàn toàn ngược lại với cái đã xảy ra ở Nam Mỹ.
Điều này không thể được giải thích bằng vạch ra những nguồn lực địa lý chênh
lệch của Bắc và Nam Mỹ, mà, có lẽ, đã ưu đãi Nam Mỹ.
Sự bất bình đẳng trong thế giới hiện đại chủ yếu là kết quả của sự
truyền bá không đều và sự chấp nhận các công nghệ, và luận đề của Diamond có
bao gồm các lý lẽ quan trọng về mặt này. Thí dụ, ông biện luận, đi theo nhà sử
học William McNeil, rằng sự định hướng [theo chiều] đông-tây của đại lục Á-Âu
đã cho phép cây trồng, động vật, và đổi mới lan từ vùng Lưỡi liềm Màu mỡ vào
Tây Âu, trong khi sự định hướng bắc-nam của châu Mỹ giải thích vì sao các hệ
thống chữ viết, mà được tạo ra ở Mexico, đã không lan tới vùng Andes hay tới
Bắc Mỹ. Thế nhưng sự định hướng của các lục địa không thể cung cấp một giải
thích cho sự bất bình đẳng thế giới ngày nay. Hãy xem xét châu Phi. Tuy Sa mạc
Sahara đã có tỏ ra là một rào cản đáng kể cho sự vận chuyển hàng hóa và ý tưởng
từ phương bắc đến châu Phi hạ-Sahara, rào cản này đã không phải là không thể
vượt qua. Những người Bồ Đào Nha, và sau đó là những người Âu châu khác, đã đi
thuyền quanh bờ biển và đã loại bỏ những khác biệt về kiến thức vào thời khi
các khoảng cách thu nhập đã là rất nhỏ so với các khoảng cách ngày nay. Kể từ
đó, châu Phi đã không bắt kịp châu Âu; ngược lại bây giờ có một khoảng cách thu
nhập lớn hơn rất nhiều giữa hầu hết các nước Phi châu và các nước Âu châu.
Cũng phải là rõ, rằng lý lẽ của Diamond, mà là về bất bình đẳng
lục địa, đã không được trang bị tốt để giải thích sự khác nhau bên trong các
lục địa – một phần quan trọng của sự bất bình đẳng thế giới hiện đại. Thí dụ,
trong khi sự định hướng của khối đất Á-Âu đã có thể giải thích nước Anh đã xoay
xở thế nào để hưởng lợi từ những đổi mới của Trung Đông mà không phải sáng chế
lại chúng, nó không giải thích vì sao Cách mạng Công nghiệp đã xảy ra ở nước
Anh hơn là, chẳng hạn, ở Moldova. Ngoài ra, như bản thân Diamond đã chỉ ra,
Trung Quốc và Ấn Độ đã hưởng lợi rất nhiều từ các bộ rất phong phú của các động
vật và thực vật, và từ sự định hướng của đại lục Á-Âu. Nhưng hầu hết những
người nghèo của thế giới ngày nay là ở hai nước đó.
Thực ra, cách tốt nhất để thấy phạm vi
của luận đề của Diamond là bằng chính các biến số giải thích của riêng ông. Bản
đồ 4 cho thấy số liệu về phân bố của Sus scrofa – Lợn rừng, tổ tiên của lợn hiện đại, và của bò
rừng, tổ tiên của bò hiện đại. Cả hai loài đã phân bố rộng ở đại lục Á-Âu và
thậm chí ở Bắc Phi. Bản đồ 5 cho thấy phân bố của một số tổ tiên hoang dại của
các cây trồng đã được thuần hóa hiện nay, như Oryza sativa, tổ tiên của lúa được trồng ở châu Á, và
tổ tiên của lúa mỳ và lúa mạch. Nó chứng tỏ rằng tổ tiên hoang dã của lúa đã
phân bố rộng khắp nam và đông nam Á, trong khi tổ tiên của lúa mỳ và lúa mạch
đã phân bố dọc theo một cung dài kéo từ Levant, qua Iran và đến Afghanistan và
cụm “stan” (Turkmenistan, Tajikistan, và Krgyzistan). Các loài cổ này có mặt ở
phần lớn đại lục Á-Âu. Nhưng sự phân bố rộng của chúng gợi ý rằng sự bất bình
đẳng bên trong đại lục Á-Âu không thể được giải thích bằng một lý thuyết đựa
vào mức độ tác động của các loài.
Giả thuyết địa lý không chỉ không hữu ích cho việc giải thích
nguồn gốc của sự thịnh vượng suốt lịch sử, và đa phần là sai trong sự nhấn mạnh
của nó, mà cũng không có khả năng giải thích thế đất (tình hình đặc trưng) mà
chúng ta đã bắt đầu chương này với. Người ta có thể biện hộ rằng bất cứ hình
mẫu bền bỉ nào, ví dụ như thứ bậc thu nhập ở bên trong châu Mỹ hay những khác
biệt sắc nét và trải dài gữa châu Âu và Trung Đông, có thể được giải thích bởi
địa lý không thay đổi. Nhưng điều này không phải vậy. Chúng ta đã thấy rồi,
rằng các hình mẫu bên trong châu Mỹ là cực kỳ ít có khả năng được thúc đẩy bởi
các yếu tố địa lý. Trước 1492, các nền văn minh ở thung lũng trung tâm của
Mexico, Trung Mỹ, và vùng Andes đã có công nghệ và mức sống cao hơn Bắc Mỹ hay
các nơi chẳng hạn như Argentina và Chile. Trong khi địa lý vẫn như thế, các thể
chế do các nhà thuộc địa Âu châu áp đặt đã tạo ra một “sự đảo ngược vận may”.
Địa lý cũng không chắc giải thích được sự nghèo khó của Trung Đông vì các lý do
tương tự. Rốt cuộc, Trung Đông đã dẫn đầu thế giới trong Cách mạng Đồ đá Mới,
và các thành phố đầu tiên được xây dựng ở nơi nay là Iraq hiện đại. Sắt đã được
nấu lần đầu tiên ở Thổ Nhĩ Kỳ, và vào cuối thời Trung Cổ, Trung Đông đã năng
động về mặt công nghệ. Đã không phải địa lý của Trung Đông là cái đã khiến cho
Cách mạng Đồ Đá Mới hưng thịnh ở phần đó của thế giới, như chúng ta sẽ thấy ở
chương 5, và, lại lần nữa, không phải địa lý là cái làm cho Trung Đông nghèo.
Thay vào đó, đã chính là sự bành trướng và sự củng cố của Đế chế Ottoman, và
chính là di sản thể chế của đế chế này là cái giữ Trung Đông nghèo hiện nay.
Cuối cùng, các yếu tố địa lý là không hữu ích cho việc giải thích
không chỉ những khác biệt mà chúng ta thấy khắp các phần khác nhau của thế
giới, mà cũng chẳng giúp ích cho việc giải thích vì sao các quốc gia như Nhật
Bản hay Trung Quốc lại trì trệ trong các thời kỳ dài và rồi bắt đầu một quá
trình tăng trưởng nhanh. Chúng ta cần một lý thuyết khác, tốt hơn.
GIẢ THUYẾT VĂN HÓA
Lý thuyết được chấp nhận rộng rãi thứ
hai, giả thuyết văn hóa, liên kết thịnh vượng với văn hóa. Giả thuyết văn hóa,
cũng giống như giả thuyết địa lý, có một dòng giống lỗi lạc, truy nguyên chí ít
về đến Max Weber, nhà xã hội học Đức vĩ đại, người cho rằng Cải cách Kháng cách[1] (Protestant Reformation) và đạo đức
Kháng cách (Protestant ethic) mà nó khích lệ đã đóng vai trò then chốt trong
tạo thuận lợi cho sự thăng tiến của xã hội công nghiệp hiện đại ở Tây Âu. Giả
thuyết văn hóa không còn chỉ dựa vào tôn giáo, mà nhấn mạnh cả các loại khác
của niềm tin, giá trị, và đạo đức nữa.
Mặc dù là không đúng đắn về mặt chính trị
để diễn đạt công khai, nhiều người vẫn cho rằng những người châu Phi nghèo bởi
vì họ thiếu một đạo lý làm việc tốt, vẫn tin vào phù thủy và ma thuật, hoặc
kháng cự các công nghệ phương Tây. Nhiều người cũng tin rằng Mỹ Latin sẽ chẳng
bao giờ giàu bởi vì người dân của nó hoang toàng và túng quẫn, và bởi vì họ có
thiên hướng văn hóa “Iberian” hay “mañana”
nào đó.[2] Tất nhiên, nhiều người một thời đã tin
rằng văn hóa Trung Quốc hay các giá trị khổng giáo là không thân thiện với tăng
trưởng kinh tế, mặc dù ngày nay người ta om sòm nói về tầm quan trọng của văn
hóa làm việc Trung Hoa như động cơ tăng trưởng ở Trung Quốc, Hồng Kông, và
Singapore.
Giả thuyết văn hóa có hữu ích cho việc hiểu sự bất bình đẳng thế
giới? Có và không. Có, theo nghĩa rằng các chuẩn mực xã hội, mà có liên quan
đến văn hóa, là có ý nghĩa và khó thay đổi, và đôi khi chúng cũng ủng hộ các
khác biệt thể chế, mà đấy [sự khác biệt thể chế] là sự giải thích của cuốn sách
này cho sự bất bình đẳng thế giới. Nhưng thường là không, bởi vì các khía cạnh
đó của văn hóa thường được nhấn mạnh – tôn giáo, đạo đức dân tộc, các giá trị
Phi châu hay Latin – đúng là không quan trọng cho việc hiểu về làm thế nào
chúng ta lại tới đây và vì sao sự bất bình đẳng thế giới lại dai dẳng. Các khía
cạnh khác, thí dụ như mức độ mà người dân tin cậy lẫn nhau hoặc có khả năng hợp
tác, là quan trọng nhưng chủ yếu chúng là kết quả của các thể chế, chứ không
phải là nguyên nhân độc lập.
Hãy quay lại với Nogales. Như chúng ta đã nhắc tới sớm hơn, nhiều
khía cạnh văn hóa là như nhau ở phía bắc và phía nam hàng rào. Tuy nhiên, có
thể có một số khác biệt rõ rệt về các thông lệ, chuẩn mực, và giá trị, mặc dù
đấy không phải là những nguyên nhân mà là những kết quả của các con đường phát
triển khác nhau của hai nơi. Thí dụ, trong các cuộc điều tra những người Mexic
thường nói rằng họ tin cậy những người khác ít hơn các công dân Hoa Kỳ nói họ
tin những người khác. Nhưng không phải là một sự ngạc nhiên rằng những người
Mexic thiếu sự tin cậy khi chính phủ của họ không thể loại bỏ các cartel ma túy
hay cung cấp một hệ thống pháp lý hoạt động không thiên vị. Cũng đúng như thế
với Bắc và Nam Hàn, khi chúng ta thảo luận ở chương tiếp theo. Niền Nam là một
trong các nước giàu nhất trên thế giới, trong khi miền Bắc vật lộn với nạn đói
định kỳ và sự nghèo khó khốn khổ. Trong khi “văn hóa” là rất khác nhau giữ miền
Nam và miền Bắc hiện nay, nó đã không đóng vai trò gì trong gây ra vận may kinh
tế khác nhau của hai nửa quốc gia này. Bán đảo Triều Tiên đã có một giai đoạn
dài của lịch sử chung. Trước Chiến tranh Triều Tiên và sự chia cắt ở vĩ tuyến
38, nó đã có một mức độ đồng đều chưa từng có về các mặt ngôn ngữ, sắc tộc, và
văn hóa. Hệt như ở Nogales, cái có ý nghĩa là đường biên giới. Về phía bắc là
một chế độ khác, áp đặt các thể chế khác, tạo ra các khuyến khích khác. Bất cứ
sự khác biệt nào về văn hóa giữa nam và bắc của đường biên giới cắt ngang qua
hai nửa Nogales hay hai miền Triều Tiên như thế không phải là một nguyên nhân
của những khác biệt về sự thịnh vượng, mà, đúng hơn, là một hậu quả.
Còn về châu Phi và văn hóa Phi châu thì sao? Về mặt lịch sử, châu
Phi hạ-Sahara đã nghèo hơn hầu hết các phần khác của thế giới, và các nền văn
minh cổ của nó đã không phát triển bánh xe, chữ viết (trừ Ethiopia và Somalia),
hay [cái] cày. Mặc dù các công nghệ này đã không được sử dụng rộng rãi cho đến
khi sự thực dân hóa Âu châu chính thức đến vào cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ
hai mươi, các xã hội Phi châu biết về chúng sớm hơn nhiều. Những người Âu châu
đã bắt đầu đi thuyền quanh bờ tây vào cuối thế kỷ thứ mười lăm, và những người
Á châu đã liên tục đi thuyền đến Đông Phi sớm hơn nhiều.
Chúng ta có thể hiểu vì sao những công nghệ này đã không được chấp
nhận từ lịch sử của Vương quốc Kongo ở cửa sông Congo, mà đã trao tên của nó
cho Cộng hòa Dân chủ Congo hiện đại. Bản đồ 6 cho thấy Kongo đã ở đâu cùng với
một nhà nước trung phi quan trọng khác, Vương quốc Kuba, mà chúng ta sẽ thảo
luận muộn hơn trong cuốn sách.
Kongo đã tiếp xúc mạnh mẽ với người Bồ Đào Nha sau khi thủy thủ
Diogo Cão đến thăm nó lần đầu tiên vào năm 1483. Tại thời đó, Kongo đã là một
chính thể được tập trung cao độ theo các tiêu chuẩn Phi châu, mà thủ đô của nó,
Mbanza, đã có dân số sáu mươi ngàn người, làm cho nó có cùng quy mô như thủ đô
Bồ Đào Nha, Lisbon, và lớn hơn London, có dân số khoảng năm mươi ngàn vào năm
1500. Vua Kongo, Nzinga a Nkuwu, đã cải đạo sang Công giáo (Catholicism) và đã
đổi tên thành João I. Muộn hơn tên của Mbanza được đổi thành São Salvador. Nhờ
những người Bồ Đào Nha, những người Kongo đã học về bánh xe và cái cày, và người
Bồ Đào Nha thậm chí đã cổ vũ sự chấp nhận chúng với các phái đoàn công cán nông
nghiệp vào năm 1491 và 1512. Nhưng tất cả những sáng kiến này đã thất bại. Ấy
thế mà, những người Kongo đã hoàn toàn không phải không thích các công nghệ
hiện đại nói chung. Họ đã rất nhanh để chấp nhận một đổi mới sáng tạo phương
Tây đáng kính: súng. Họ đã dùng công cụ mới và hùng mạnh này để đáp lại các
khuyến khích thị trường: để bắt và xuất khẩu nô lệ. Chẳng hề có dấu hiệu nào ở
đây rằng các giá trị hay văn hóa Phi châu đã ngăn cản sự chấp nhận các công
nghệ và thói quen mới. Khi những tiếp xúc của họ với những người Âu châu sâu
thêm, những người Kongo đã chấp nhận các thói quen phương Tây khác: biết đọc
biết viết, phong cách ăn mặc, kiểu mẫu nhà cửa. Trong thế kỷ mười chín, nhiều
xã hội Phi châu cũng đã tận dụng các cơ hội kinh tế tăng lên do Cách mạng Công
nghiệp tạo ra bằng cách thay đổi các hình mẫu sản xuất của họ. Ở Tây Phi đã có
sự phát triển kinh tế nhanh dựa trên xuất khẩu dầu cọ và lạc; khắp miền nam
châu Phi, những người Phi châu đã phát triển xuất khẩu cho các vùng công nghiệp
và khai mỏ đang mở rộng nhanh chóng của Rand ở Nam Phi. Thế nhưng những thử
nghiệm kinh tế đầy hứa hẹn này đã bị xóa sạch không phải bởi văn hóa Phi châu
hay bởi sự bất tài của những người dân thường Phi châu để hành động vì lợi ích
riêng của họ, mà đầu tiên bởi chủ nghĩa thực dân Âu châu và sau đó bởi các
chính phủ Phi châu sau độc lập.
Lý do thực sự của việc những người Kongo không chấp nhận công nghệ ưu
việt bởi vì họ đã không có khuyến khích nào để làm vậy. Họ đã đối mặt với một
rủi ro cao về tất cả sản lượng của họ bị chiếm đoạt hay bị đánh thuế bởi nhà
vua có mọi quyền lực, dẫu cho ngài đã có cải đạo sang Công giáo hay không. Thực
ra, đã không chỉ là tài sản của họ không an toàn. Sự tồn tại tiếp tục của họ
được giữ bằng một sợi chỉ. Nhiều trong số họ đã bị bắt và bị bán làm nô lệ
– một môi trường hầu như không khích lệ đầu tư để làm tăng năng suất dài hạn.
Nhà vua cũng đã chẳng có các khuyến khích để làm cho việc chấp nhận [công nghệ]
cày trên quy mô lớn hay gia tăng năng suất nông nghiệp thành ưu tiên chính của
ngài; xuất khẩu nô lệ đã sinh lợi hơn rất nhiều.
Đã có thể đúng ngày nay rằng những người Phi châu tin cậy lẫn nhau
ít hơn người dân ở những phần khác của thế giới. Nhưng đấy là một kết quả của
một lịch sử dài của các thể chế mà đã làm xói mòn các quyền con người và quyền
tài sản ở châu Phi. Khả năng bị bắt và bị bán như một nô lệ, không nghi ngờ gì
đã ảnh hưởng đến mức độ mà những người Phi châu tin vào nhau về mặt lịch sử.
Về đạo đức Protestant của Max Weber thì sao? Mặc dù có thể đúng
rằng các nước hầu thết theo Protestant, ví dụ như Hà Lan và Anh, đã là những
thành công kinh tế đầu tiên của kỷ nguyên hiện đại, có ít quan hệ giữa tôn giáo
và thành công kinh tế. Pháp, nước hầu hết theo Công giáo, đã mau chóng bắt
chước thành tích kinh tế của người Hà Lan và người Anh trong thế kỷ mười chín,
và ngày nay Italy cũng thịnh vượng như bất cứ quốc gia nào trong các quốc gia
này. Nhìn xa hơn sang phương đông, bạn sẽ thấy rằng chẳng có nền kinh tế nào
trong các nền kinh tế thành công của Đông Á có bất cứ quan hệ gì với bất cứ
hình thức Kitô giáo (Christian) nào, cho nên cũng chẳng có mấy sự ủng hộ cho
một mối quan hệ đặc biệt giữa phong trào Protestant và thành công kinh tế cả ở
đó nữa.
Hãy quay sang vùng ưa thích đối với những người say mê giả thuyết
văn hóa: Trung Đông. Các nước Trung Đông chủ yếu theo đạo Hồi, và các nước
không sản xuất dầu trong số đó là rất nghèo, như chúng ta đã nhắc tới. Các nước
sản xuất dầu giàu hơn, nhưng của cải trời cho này đã làm chẳng bao nhiêu để tạo
ra các nền kinh tế hiện đại đa dạng ở Saudi Arabia hay Kuwait. Chẳng phải những
sự thực này cho thấy một cách thuyết phục rằng tôn giáo có ý nghĩa? Mặc dù có
vẻ hợp lý, lý lẽ này cũng chẳng đúng. Đúng, các nước Syria và Ai Cập là nghèo,
và dân cư của chúng chủ yếu theo đạo Hồi. Nhưng các nước này cũng khác một cách
có hệ thống theo những cách khác mà quan trọng hơn nhiều đối với sự thịnh
vượng. Trước hết, tất cả chúng đã là các tỉnh của Đế chế Ottoman, mà đã định hình
một cách nặng nề và bất lợi cách chúng đã phát triển. Sau khi sự cai trị
Ottoman sụp đổ, Trung Đông đã bị gộp vào các đế chế thuộc địa Anh và Pháp, mà,
lại lần nữa, làm còi cọc những khả năng của chúng. Sau khi độc lập, chúng đã
hầu như đi theo thế giới thuộc địa trước đó bằng cách phát triển các chế độ
chính trị thứ bậc, chuyên quyền với số ít các thể chế chính trị và kinh tế mà,
như chúng ta sẽ biện luận, là cốt yếu cho việc tạo ra thành công kinh tế. Con
đường phát triển này đã được tạo dựng chủ yếu bởi lịch sử của sự cai trị
Ottoman và Âu châu. Quan hệ giữa Hồi giáo và nghèo khó ở Trung Đông phần lớn là
giả.
Vai trò của các sự kiện lịch sử này, hơn là các yếu tố văn hóa,
trong định hình quỹ đạo kinh tế của Trung Đông cũng được thấy trong sự thực
rằng các phần của Trung Đông mà tạm thời thoát khỏi được ảnh hưởng của Đế chế
Ottoman và các cường quốc Âu châu, như Ai Cập giữa 1805 và 1848 dưới thời
Muhammad Ali, đã có thể bắt đầu tiến lên con đường thay đổi kinh tế nhanh.
Muhammad Ali đã chiếm quyền tiếp sau sự rút lui của các lực lượng Pháp đã chiếm
đóng Ai Cập dưới thời Napoleon Bonaparte. Khai thác sự yếu ớt của ảnh hưởng
Ottoman lên lãnh thổ Ai Cập lúc đó, ông đã có thể lập ra triều đại riêng của
mình, mà, dưới hình thức này hay hình thức khác, đã có thể cai trị cho đến Cách
mạng Ai Cập dưới sự lãnh đạo của Nasser năm 1952. Các cuộc cải cách của
Muhammad Ali, mặc dù cưỡng bức, đã mang lại sự tăng trưởng cho Ai Cập khi bộ
máy nhà nước, quân đội, hệ thống thuế đã được hiện đại hóa và đã có tăng trưởng
trong nông nghiệp và công nghiệp. Tuy nhiên, quá trình hiện đại hóa và tăng
trưởng này đã kết thúc sau cái chết của Ali, vì Ai Cập đã rơi vào ảnh hưởng của
châu Âu.
Nhưng có lẽ đấy là cách sai để nghĩ về văn hóa. Có thể các yếu tố
văn hóa mà có ý nghĩa lại không gắn với tôn giáo mà đúng hơn gắn với “các văn
hóa dân tộc” cá biệt. Có lẽ ảnh hưởng của văn hóa Anh là cái quan trọng và giải
thích vì sao các nước như Hoa Kỳ, Canada, và Australia thịnh vượng đến vậy? Mặc
dù ý tưởng này ban đầu nghe có vẻ hấp dẫn, nó cũng chẳng có hiệu lực. Đúng, Hoa
Kỳ và Canada đã là các thuộc địa của Anh, nhưng Sierra Leone và Nigeria cũng
thế. Sự biến động về thịnh vượng bên trong các thuộc địa trước kia của Anh cũng
lớn như sự biến động thịnh vượng trên toàn thế giới. Di sản Anh không phải là
lý do cho thành công của Bắc Mỹ.
Còn có một phiên bản nữa của giả thuyết văn hóa: có lẽ không phải
là Anh đối lại không Anh là cái có ý nghĩa, mà là Âu châu đối lại không Âu
châu. Có thể chăng là, những người Âu châu giỏi hơn vì lý do nào đó bởi vì đạo
đức làm việc, cách nhìn về cuộc sống, các giá trị Do Thái-Kitô giáo, hay di sản
La Mã của họ? Đúng là dân cư của Tây Âu và Bắc Mỹ, những phần thịnh vượng nhất
của thế giới, chủ yếu là những người có nguồn gốc Âu châu. Có lẽ di sản văn hóa
Âu châu ưu việt hơn là cái nằm ở gốc của sự thịnh vượng – và là nơi ẩn náu cuối
cùng của giả thuyết văn hóa. Chao ôi, phiên bản này của giả thuyết văn hóa cũng
có ít khả năng giải thích như các phiên bản khác. Phần lớn hơn của dân cư ở
Argentina và Uruguay, so với dân cư Hoa Kỳ và Canada, là những người có gốc Âu
châu, nhưng thành tích kinh tế của Argentina và Uruguay có nhiều điểm đáng chê.
Nhật Bản và Singapore đã chẳng bao giờ có nhiều hơn một nhúm cư dân gốc Âu
châu, thế nhưng họ thịnh vượng như nhiều phần của Tây Âu.
Trung Quốc, bất chấp nhiều thiếu sót trong hệ thống kinh tế và
chính trị của nó, đã là quốc gia tăng trưởng nhanh nhất của ba thập kỷ vừa qua.
Sự nghèo khó của Trung Quốc cho đến cái chết của Mao Trạch Đông đã chẳng liên
quan gì đến văn hóa Trung Hoa; nó đã là do cung cách tai họa mà Mao đã tổ chức
nền kinh tế và điều hành chính trị. Trong các năm 1950, Mao đã thúc đẩy phong
trào Đại Nhảy Vọt, một chính sách công nghiệp hóa quyết liệt mà đã dẫn tới chết
đói hàng loạt và nạn đói. Trong các năm 1960, ông đã tuyên truyền Cách mạng Văn
hóa, mà đã dẫn đến sự đàn áp hàng loạt trí thức và những người có học – bất cứ
ai mà lòng trung thành với đảng bị nghi ngờ. Việc này, một lần nữa, lại đã dẫn
đến khủng bố và một sự lãng phí khổng lồ tài năng và nguồn lực của xã hội. Cũng
thế, tăng trưởng hiện thời của Trung Quốc chẳng có liên quan gì đến các giá trị
Trung Hoa hay đến những thay đổi về văn hóa Trung Hoa; nó là kết quả của một
quá trình biến đổi kinh tế được tháo xích bởi những cải cách được thực hiện bởi
Đặng Tiểu Bình và các đồng minh của ông, người, sau cái chết của Mao Trạch
Đông, đã dần dần từ bỏ các chính sách và các thể chế kinh tế xã hội chủ nghĩa,
đầu tiên trong nông nghiệp và sau đó trong công nghiệp.
Hệt như giả thuyết địa lý, giả thuyết văn hóa cũng vô ích cho sự
giải thích các khía cạnh khác của địa hình địa thế [tình hình] xung quanh chúng
ta ngày nay. Tất nhiên, có những khác biệt về lòng tin, thái độ văn hóa, và các
giá trị giữa Hoa Kỳ và Mỹ Latin, nhưng hệt như những khác biệt giữa Nogales, Arizona,
và Nogales, Sonora, hoặc giữa Bắc và Nam Hàn, những khác biệt này là hệ quả của
các thể chế và lịch sử thể chế khác nhau của hai nơi. Các yếu tố văn hóa mà
nhấn mạnh văn hóa “Hispanic” hay “Latin” đã đúc Đế chế Tây Ban Nha bằng khuôn
không thể giải thích những sự khác biệt bên trong châu Mỹ Latin – thí dụ, vì
sao Argentina và Chile thịnh vượng hơn Peru và Bolivia. Các loại khác của các
lý lẽ văn hóa – chẳng hạn, những loại nhấn mạnh văn hóa bản địa đương đại –
cũng hoạt động tồi ngang thế. Argentina và Chile có ít dân bản địa so với Peru
và Bolivia. Mặc dù điều này đúng, văn hóa bản địa với tư cách một sự giải thích
cũng chẳng có hiệu lực. Colombia, Ecuador, và Peru có mức sống tương tự nhau,
nhưng ngày nay Columbia có rất ít người bản địa, trong khi Ecuador, và Peru có
nhiều. Cuối cùng, các thái độ văn hóa, mà nói chung là chậm để thay đổi, bản
thân chúng không chắc giải thích được sự tăng trưởng kỳ diệu ở Đông Á và Trung
Quốc. Mặc dù các thể chế tồn tại dai dẳng, trong những hoàn cảnh nhất định
chúng cũng thay đổi nhanh chóng, như chúng ta sẽ thấy.
GIẢ THUYẾT DỐT NÁT
Lý thuyết được ưa chuộng cuối cùng về vì sao một số quốc gia nghèo
và một số giàu là giả thuyết dốt nát, mà nó khẳng định rằng sự bất bình đẳng
thế giới tồn tại bởi vì chúng ta hay những kẻ cai trị chúng ta không biết làm
thế nào để biến các nước nghèo thành giàu. Ý tưởng này là ý tưởng của hầu hết
các nhà kinh tế học, những người nhận được sự gợi ý từ định nghĩa nổi tiếng do
nhà kinh tế học Anh Lionel Robins đề xuất năm 1935 rằng “kinh tế học là môn
khoa học nghiên cứu hành vi con người như một mối quan hệ giữa các mục đích và
các phương tiện khan hiếm mà có những cách sử dụng khả dĩ khác”.
Sau đó chỉ là một bước nhỏ để kết luận rằng khoa học kinh tế phải
tập trung vào cách sử dụng tốt nhất các phương tiện khan hiếm để thỏa mãn các
mục đích xã hội. Thực vậy, kết quả lý thuyết nổi tiếng nhất trong kinh tế học,
cái được gọi là Định lý Phúc lợi Thứ nhất, nhận diện hoàn cảnh mà dưới đó sự
phân bổ nguồn lực trong một “nền kinh tế thị trường” là đáng mong mỏi về mặt xã
hội nhìn từ quan điểm kinh tế. Một nền kinh tế thị trường là một sự trừu tượng
hóa mà có ý định nắm bắt một hoàn cảnh trong đó tất cả các cá nhân và các hãng
có thể sản xuất, mua, và bán một cách tự do bất cứ sản phẩm hay dịch vụ nào mà
họ muốn. Khi các hoàn cảnh này không hiện diện thì có một “khiếm khuyết thị
trường – market failure – hay thất bại thị trường”. Những khiếm khuyết như vậy
tạo cơ sở cho một lý thuyết về sự bất bình đẳng thế giới, vì các khiếm khuyết
thị trường càng không được giải quyết, thì một nước càng có khả năng là nghèo.
Giả thuyết dốt nát xác nhận rằng các nước nghèo là nghèo bởi vì chúng có nhiều
khiếm khuyết thị trường và bởi vì các nhà kinh tế học và các nhà hoạch định
chính sách không biết làm thế nào để thoát khỏi chúng và đã chú ý đến lời
khuyên sai trong quá khứ. Các nước giàu là giàu bởi vì họ đã hình dung ra các
chính sách tốt hơn và đã thành công loại bỏ các khiếm khuyết này.
Giả thuyết dốt nát có thể giải thích sự bất bình đẳng thế giới? Có
thể chăng rằng các nước Phi châu nghèo hơn phần còn lại của thế giới là bởi vì
các nhà lãnh đạo của họ có xu hướng có cùng các quan điểm sai lầm về làm thế
nào để vận hành các nước của họ, dẫn đến sự nghèo khó ở đó, trong khi các nhà
lãnh đạo Tây Âu có hiểu biết tốt hơn hay được khuyên bảo tốt hơn, mà giải thích
thành công tương đối của họ? Trong khi có các thí dụ nổi tiếng về các nhà lãnh
đạo chọn làm theo các chính sách tai hại bởi vì họ đã hiểu lầm các hậu quả của
những chính sách đó, sự dốt nát có thể giải thích một phần nhỏ của sự bất bình
đẳng thế giới.
Xét theo bề ngoài, sự sa sút kinh tế kéo dài, mà đã bắt đầu ngay ở
Ghana sau khi độc lập khỏi Anh, đã do sự dốt nát gây ra. Nhà kinh tế học Anh
Tony Killick, khi đó hoạt động với tư cách một cố vấn cho chính phủ Kwame
Nkrumah đã ghi lại rất chi tiết nhiều vấn đề. Các chính sách của Nkrumah đã tập
trung vào phát triển công nghiệp nhà nước, mà đã hóa ra là rất không hiệu quả.
Killick nhớ lại:
Nhà máy giày … mà phải gắn với nhà máy thịt ở miền Bắc qua việc
vận chuyển da xuống miền Nam (suốt một khoảng cách trên 500 dặm) đến một nhà
máy thuộc da (bây giờ bị bỏ hoang); đã phải chở da thuộc ngược lại bằng xe tải
đến nhà máy giày ở Kumasi, ở giữa nước và cách nhà máy thuộc da khoảng 200 dặm
về phía bắc. Vì thị trường giày chính là ở vùng đô thị Accra, nên sau đó giày
phải được vận chuyển thêm 200 dặm quay lại miền Nam.
Killick bình luận một cách hơi giảm bớt rằng đấy đã là một hoạt
động kinh doanh “mà khả năng sinh lời của nó bị xói mòn bởi sự lựa chọn địa
điểm tồi”. Nhà máy giày chỉ là một trong nhiều dự án như vậy, thêm vào là nhà
máy đóng hộp xoài được đặt tại vùng của Ghana mà đã không trồng xoài và sản
lượng của nó đã nhiều hơn cầu của toàn thế giới đối với sản phẩm đó. Dòng vô
tận này của những việc triển khai phi lý về mặt kinh tế đã không được gây ra bở
sự thực rằng Nkrumah và các cố vấn của ông đã kém hiểu biết hay đã dốt nát về
các chính sách kinh tế đúng. Họ đã có những cố vấn như Killick và đã thậm chí
được tư vấn bởi kinh tế gia được giải Nobel, Sir Arthur Lewis, những người đã
biết các chính sách này là không tốt. Cái đã khiến các chính sách kinh tế có
hình thức ấy là sự thực rằng Nkrumah đã cần phải sử dụng chúng để mua sự ủng hộ
chính trị và để duy trì chế độ phi dân chủ của ông. Thành tích gây thất vọng
của Ghana sau độc lập không thể, và vô số các trường hợp khác về quản lý kinh
tế sai rành rành cũng chẳng thể, đơn giản đổ lỗi cho sự ngu dốt. Rốt cuộc, nếu
giả như sự ngu dốt là vấn đề, thì các nhà lãnh đạo có thiện chí sẽ nhanh chóng
học được các loại chính sách nào làm tăng thu nhập và phúc lợi của các công dân
của họ, và sẽ hướng theo các chính sách đó.
Hãy xem xét những con đường khác nhau của Hoa Kỳ và Mexico. Quy sự
khác biệt này cho sự dốt nát của các lãnh đạo của hai quốc gia, nhiều nhất, là
có vẻ hết sức không hợp lý. Đã không phải là những sự khác biệt về hiểu biết
hay về ý định giữa John Smith và Cortés là cái đã gieo hạt phân kỳ trong giai
đoạn thuộc địa, và đã không phải là những sự khác biệt về hiểu biết giữa các
tổng thống Hoa Kỳ muộn hơn, như Teddy Roosevelt hay Woodrow Wilson, và Porfirio
Díaz là cái đã khiến cho Mexico chọn các thể chế kinh tế làm giàu cho elite gây
tổn hại cho phần còn lại của xã hội vào cuối thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai
mươi, trong khi Roosevelt và Wilson thì đã làm ngược lại. Đúng hơn, đã là những
khác biệt về các ràng buộc thể chế mà các tổng thống và elite của hai nước đã
phải đối mặt. Tương tự, các nhà lãnh đạo của các quốc gia Phi châu, các quốc
gia sống khổ cực dưới các quyền tài sản và các thể chế kinh tế không an toàn,
bần cùng hóa phần lớn dân cư của họ, đã không cho phép điều này xảy ra bởi vì
họ đã nghĩ nó là nền kinh tế tốt; họ đã làm như vậy bởi vì họ đã có thể không
bị trừng phạt và làm giàu cho bản thân họ gây tổn hại cho những người còn lại,
hay bởi vì họ đã nghĩ là quan điểm chính trị tốt, một cách để bản thân họ bám
lấy quyền lực bằng cách mua sự ủng hộ của các nhóm cốt yếu hay elite.
Kinh nghiệm của thủ tướng Ghana trong năm 1971, Kofi Busia, minh
họa giả thuyết ngu dốt có thể gây lạc lối đến thế nào. Busia đã đối mặt với một
khủng hoảng kinh tế nguy hiểm. Sau khi lên nắm quyền năm 1969, giống như
Nkrumah trước ông, ông đã theo đuổi các chính sách kinh tế mở rộng không bền
vững và duy trì những sự kiểm soát giá khác nhau thông qua các hội đồng
marketing và đã định tỷ giá hối đoái cao. Mặc dù Busia đã là một định thủ của
Nkrumah, và đã lãnh đạo một phong trào dân chủ, ông đã phải đối mặt với nhiều
ràng buộc chính trị cũng như thế. Như với Nkrumah, các chính sách kinh tế của
ông đã được chấp nhận không phải bởi vì ông đã “dốt nát” và đã tin rằng những
chính sách này là chính sách kinh tế tốt hay là một cách lý tưởng để phát triển
đất nước. Các chính sách này đã được chọn bởi vì chúng đã tốt về mặt chính trị,
cho phép Busia chuyển nguồn lực cho các nhóm hùng mạnh về mặt chính trị, thí dụ
ở các vùng đô thị, những người cần phải được cảm thấy hài lòng. Những việc kiểm
soát giá đã vắt ngành nông nghiệp, cung cấp thực phẩm rẻ cho các cử tri đô thị
và tạo thu nhập để tài trợ cho chi tiêu của chính phủ. Nhưng những kiểm soát
này đã là không bền vững. Ghana mau chóng đã bị một loạt khủng hoảng về cán cân
thanh toán và thiếu hụt ngoại hối. Đối mặt với những thế lưỡng nan này, ngày
27-12-1971, Busia đã ký một thỏa thuận với Quỹ Tiền tệ Quốc tế, IMF, mà bao gồm
một sự phá giá ồ ạt đồng nội tệ.
IMF, Ngân hàng Thế giới, và toàn bộ cộng đồng quốc tế đã gây áp
lực lên Busia để thực thi những cải cách chứa trong thỏa thuận. Mặc dù các thể
chế quốc tế đã sung sướng không ý thức được, nhưng Busia biết rõ ông đang lao
vào một cuộc đánh bạc chính trị khổng lồ. Hệ quả ngay lập tức của việc phá giá
đồng tiền đã là bạo loạn và bất mãn ở Accra, thủ đô Ghana, mà đã lên đến mức
không thể kiểm soát nổi cho đến khi Busia bị lật đổ bởi quân đội, lãnh đạo bởi
Trung Tá Acheampong, người đã lập tức đảo ngược việc phá giá.
Giả thuyết dốt nát khác các giả thuyết địa lý và văn hóa ở chỗ nó
đến dễ dàng với một gợi ý về “giải quyết” vấn đề nghèo khó như thế nào: nếu sự
dốt nát đã đưa chúng ta đến đây, thì các nhà cai trị và các nhà hoạch định
chính sách được giác ngộ và có hiểu biết sẽ có thể đưa chúng ta ra khỏi và
chúng ta phải có khả năng “sắp đặt-engineer” sự thịnh vượng quanh thế giới bằng
cách cung cấp lời khuyên đúng và thuyết phục các nhà chính trị về nền kinh tế
tốt là gì. Thế nhưng kinh nghiệm của Busia nhấn mạnh sự thực rằng trở ngại
chính đối với việc chấp nhận các chính sách mà sẽ làm giảm những khiếm khuyết
thị trường và khích lệ tăng trưởng kinh tế không phải là sự vô minh, sự dốt nát
của các nhà chính trị mà là các khuyến khích (incentive) và các ràng buộc
(constraint) họ đối mặt từ các thể chế chính trị và kinh tế trong các xã hội
của họ.
Mặc dù giả thuyết dốt nát vẫn ngự trị cao nhất giữa hầu hết các
nhà kinh tế học và trong giới làm chính sách phương Tây – mà, hầu như loại trừ
tất cả những thứ khác, chỉ chú tâm vào làm thế nào để sắp đặt, lập kế hoạch sự
thịnh vượng – nó chỉ là một giả thuyết khác không có hiệu lực. Nó không giải
thích được các nguồn gốc của thịnh vượng quanh thế giới và cũng chẳng giải
thích được tình hình (thế đất) quanh chúng ta – thí dụ, vì sao một số quốc gia,
chẳng hạn Mexico và Peru, chứ không phải Hoa Kỳ hay Anh, đã chấp nhận các thể
chế và các chính sách bần cùng hóa đa số công dân của họ, hay vì sao hầu như
toàn bộ châu Phi hạ-Sahara và hầu hết Trung Mỹ lại nghèo hơn Tây Âu hay Đônng Á
rất nhiều.
Khi các quốc gia phá vỡ để vượt ra khỏi các hình mẫu thể chế ép
buộc họ nghèo và tìm được cách để bắt đầu bước lên con đường tăng trưởng kinh
tế, việc này không phải bởi vì các nhà lãnh đạo dốt nát của họ đột nhiên trở nên
có hiểu biết tốt hơn hay ít tự-tư tự lợi hơn hoặc đã nhận được lời khuyên từ
các nhà kinh tế học giỏi hơn. Thí dụ, Trung Quốc là một trong những nước đã
chuyển từ các chính sách kinh tế gây ra nghèo khó và sự chết đói của hàng triệu
người sang các chính sách khích lệ tăng trưởng kinh tế. Nhưng, như muộn hơn
chúng ta sẽ thảo luận chi tiết hơn nhiều, điều này đã không xảy ra bởi vì Đảng
Cộng Sản Trung Quốc cuối cùng đã hiểu rằng sở hữu tập thể về đất nông nghiệp và
công nghiệp đã tạo ra các khuyến khích khủng khiếp. Thay vào đó, Đặng Tiểu Bình
và các đồng minh của ông, những người đã không kém tư lợi hơn các đối thủ của
họ mà là những người có các lợi ích và các mục tiêu chính trị khác, đã đánh bại
các đối thủ hùng mạnh của họ trong Đảng Cộng Sản và đã chỉ huy một cuộc cách
mạng chính trị loại xoàng, thay đổi triệt để ban lãnh đạo và đường hướng của
đảng. Các cuộc cải cách kinh tế của họ, mà đã tạo ra các khuyến khích thị
trường trong nông nghiệp và sau đó trong công nghiệp, đã tất yếu xảy đến từ
cách mạng chính trị này. Chính chính trị là cái đã quyết định sự chuyển từ chủ
nghĩa cộng sản sang các khuyến khích thị trường ở Trung Quốc, chứ không phải
lời khuyên tốt hơn hoặc một sự hiểu đúng hơn về nền kinh tế hoạt động thế nào.
CHÚNG TA SẼ CHỨNG TỎ rằng để hiểu sự bất bình đẳng thế giới
chúng ta phải hiểu vì sao một số xã hội lại được tổ chức theo những cách rất
không hiệu quả và không đáng mong mỏi về mặt xã hội. Các quốc gia đôi khi có
tìm được cách để chấp nhận các thể chế hiệu quả và đạt sự thịnh vượng, nhưng
chao ôi, đấy là những trường hợp hiếm hoi. Hầu hết các nhà kinh tế học và các
nhà hoạch định chính sách đã tập trung vào “getting it right – hiểu đúng,
làm đúng”, trong khi cái thực sự cần đến là một sự giải thích vì sao các quốc
gia nghèo lại “get it wrong – hiểu sai, làm sai”. Làm sai phần lớn không phải
là về sự dốt nát hay văn hóa. Như chúng ta sẽ chứng tỏ, các nước nghèo là nghèo
bởi vì những người có quyền lực đưa ra những lựa chọn mà chúng tạo ra nghèo
khó. Họ làm sai không phải bởi sự sai lầm hay sự ngu dốt mà là cố ý, có chủ
tâm. Để hiểu điều này, bạn phải vượt quá kinh tế học và lời khuyên chuyên gia
về cái tốt nhất để làm và, thay vào đó, nghiên cứu các quyết định thực sự được
đưa ra như thế nào, ai sai khiến đưa ra chúng, và vì sao những người quyết định
để làm cái họ làm. Đây là việc nghiên cứu về chính trị học và các quá trình
chính trị. Theo truyền thống kinh tế học đã bỏ qua chính trị học, nhưng việc
hiểu chính trị học là cốt yếu cho việc hiểu sự bất bình đẳng thế giới. Với tư
cách một nhà kinh tế học Abba Lerner đã nhận xét trong các năm 1970, “Kinh tế
học đã nhận được danh hiệu Nữ hoàng của các Khoa học Xã hội bằng cách chọn các
vấn đề chính trị đã được giải quyết như lĩnh vực của mình”.
Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng việc đạt sự thịnh vượng phụ thuộc vào
việc giải [quyết] một số vấn đề chính trị cơ bản. Chính xác bởi vì kinh tế học
đã giả thiết rằng các vấn đề chính trị đã được giải mà nó đã không có khả năng
tìm ra một lời giải thích thuyết phục cho sự bất bình đẳng thế giới. Việc giải
thích sự bất bình đẳng thế giới vẫn cần đến kinh tế học để hiểu các loại khác
nhau của các chính sách và những dàn xếp xã hội ảnh hưởng thế nào đến các
khuyến khích và hành vi kinh tế. Nhưng nó cũng cần chính trị học.
[1] Protestant cũng thường được dịch ra tiếng
Việt là Tin lành, tuy phong trào Tin lành (Evangelism) chỉ là một trào lưu
thuộc phong trào Kháng cách (Protestantism), ngoài Tin lành ra còn có các giáo
phái khác cũng thuộc cộng đồng Kháng cách lớn này như Anh giáo, Calvinist vân
vân. Tại Việt Nam Tin lành là cộng đồng Kháng cách lớn nhất, có lẽ vì thế mà có
sự lẫn lộn về thuật ngữ như vậy. Trong bản dịch này đôi khi để nguyên là
protestant.
[2] Mañana tiếng Tây ban Nha có nghĩa là ngày mai,
hặc là một thời điểm không xác định trong tương lai, văn hóa mañana có thể được đặc trưng bằng câu tục ngữ
của họ “sao lại phải làm hôm nay nếu cũng có thể làm vào ngày mai”.
3.TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ
KINH TẾ HỌC CỦA VĨ TUYẾN 38
TRONG MÙA HÈ 1945, khi Chiến tranh Thế giới Thứ hai sắp kết thúc,
thuộc địa Nhật ở Triều Tiên bắt đầu sụp đổ. Trong vòng một tháng kể từ ngày 15
tháng Tám khi Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện,
Triều Tiên được chia tại vĩ tuyến 38 thành hai khu vực ảnh hưởng.
Miền Nam
được quản lý bởi Hoa Kỳ. Miền Bắc, bởi Nga. Hòa bình khó chịu của chiến tranh
lạnh bị tan vỡ vào tháng Sáu năm 1950 khi quân đội Bắc Triều Tiên xâm lược miền
Nam .
Mặc dầu ban đầu quân Bắc Triều Tiên đã tiến hành đột nhập lớn, chiếm thủ đô Seoul , vào mùa thu, họ đã
rút lui hoàn toàn. Chính khi đó Hwang Poyŏng-Wŏn và anh trai của mình bị chia
ly. Hwang Poyŏng-Wŏn đã tìm được cách để trốn và tránh bị tuyển vào quân đội
Bắc Triều Tiên. Ông ở lại Seoul
và làm như một dược sĩ. Anh ông, một bác sĩ làm việc ở Seoul chữa trị cho những người lính bị thương
từ quân đội Nam Hàn, đã bị bắt về miền bắc khi quân Bắc Triều Tiên rút lui. Bị
lôi tách khỏi nhau năm 1950, họ đã gặp lại năm 2000 ở Seoul lần đầu tiên trong
năm mươi năm, sau khi hai chính phủ cuối đùng đã đồng ý để bắt đầu một chương
trình hạn chế về đoàn tụ gia đình.
Với tư cách một bác sĩ, anh của Hwang Poyŏng-Wŏn đã làm việc cho
không quân, một việc làm tốt trong một chế độ độc tài quân sự. Nhưng ngay cả
những người với các đặc quyền ở Bắc Triều Tiên [cũng] không làm ăn khấm khá.
Khi hai anh em gặp nhau, Hwang Poyŏng-Wŏn đã hỏi về cuộc sống ở bắc vĩ tuyến 38
thế nào. Ông có xe hơi, nhưng anh ông không có. “Anh có điện thọa không?” ông
hỏi anh mình. “Không”, người anh nói. “Con gái anh, nó làm ở Bộ Ngoại giao, có
một điện thoại, nhưng nếu không biết mã, thì không thể gọi được”. Hwang
Poyŏng-Wŏn nhớ tất cả những người từ miền Bắc đã xin tiền thế nào, cho nên ông
đưa một số tiền cho anh mình. Nhưng anh ông bảo, “Nếu anh mang tiền về chính
phủ sẽ bảo, ‘Đưa số tiền đó cho chúng tôi’, cho nên em giữ lấy”. Hwang
Poyŏng-Wŏn để ý thấy áo của anh mình bị sờn: “Anh cởi áo đó ra và bỏ lại đây,
và khi anh về hãy mặc cái áo này,” ông gợi ý. “Anh không thể làm điều đó,” anh
ông trả lời. “Cái áo này vừa mượn được từ chính phủ để đi đến đây.” Hwang
Poyŏng-Wŏn nhớ lại khi họ chia tay, anh ông không thoải mái đến thế nào và luôn
luôn lo lắng cứ như có ai đó đang nghe lén. Ông nghèo hơn mức Hwang Poyŏng-Wŏn
đã tưởng tượng. Anh ông nói ông sống tốt, nhưng Hwang Poyŏng-Wŏn nghĩ ông nhìn
đáng sợ và gầy như cây sậy.
Nhân dân Nam Hàn có mức sống tương tự như mức sống của Bồ Đào Nha
và Tây Ban Nha. Về phía bắc, ở cái gọi là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên,
hay Bắc Triều Tiên, mức sống hơi giống mức sống của một nước châu Phi
hạ-Sahara, khoảng một phần mười mức sống ở Nam Hàn. Sức khỏe của những người
Bắc Triều Tiên thậm chí còn trong trạng thái tồi tệ hơn; người Bắc Triều Tiên
có thể kỳ vọng sống mười năm ngắn hơn anh em họ của mình ở phía nam vĩ tuyến
38. Bản đồ 7 minh họa theo cách đầy kịch tính về khoảng cách kinh tế giữa hai
miền Triều Tiên. Nó thể hiện số liệu về cường độ ánh sáng vào ban đêm từ các
bức ảnh vệ tinh. Bắc Triều Tiên hầu như hoàn toàn đen thui do thiếu điện; Nam
Hàn rực lên với ánh sáng.
Những khác biệt nổi bật này không phải là cổ xưa. Thực ra, chúng
đã không tồn tại trước cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Nhưng sau 1945, các
chính phủ khác nhau ở miền Bắc và miền Nam đã chọn theo những cách khác
nhau để tổ chức nền kinh tế của họ. Nam Hàn được lãnh đạo, và các thể chế kinh
tế và chính trị ban đầu của nó đã được định hình, bởi Lý Thừa Vãn (Syngman
Rhee), một người được đào tạo tại [các đại học] Havard và Princeton và chống
cộng kiên định, với sự ủng hộ đáng kể của Hoa Kỳ. Lý đã được bầu làm tổng thống
năm 1948. Được rèn đúc giữa Chiến tranh Triều Tiên và chống lại mối đe dọa về
chủ nghĩa cộng sản lan xuống phía nam vĩ tuyến 38, Nam Hàn đã không là một nền
dân chủ. Cả Lý lẫn người kế vị của ông, Park Chung Hee, nổi tiếng ngang như
ông, đã đảm bảo các vị trí của họ trong lịch sử như các tổng thống chuyên
quyền. Nhưng cả hai đã cai trị một nền kinh tế thị trường nơi quyền tài sản tư
nhân được công nhận, và sau 1961 Park đã thực sự dùng sức mạnh và ảnh hưởng của
nhà nước để ủng hộ sự tăng trưởng nhanh, hướng tín dụng và các khoản trợ cấp
cho các hãng thành công.
Tình hình ở phía bắc vĩ tuyến 38 đã khác. Kim Nhật Thành (Kim Il-Sung),
một nhà lãnh đạo của những người du kích cộng sản chống Nhật trong Chiến tranh
Thế giới Thứ hai, đã xác lập mình như nhà độc tài vào năm 1947 và, với sự giúp
đỡ của Liên Xô, đã đưa vào một dạng cứng nhắc của nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung như một phần của cái gọi là hệ thống Juche [Tự lực]. Quyền tài sản tư
nhân bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, và các thị trường bị cấm. Quyền tự do bị
cắt bớt không chỉ trên thương trường, mà trong mọi lĩnh vực cuộc sống của những
người Bắc Triều Tiên – trừ những người tình cờ thuộc thành phần của elite rất
nhỏ cai trị xung quanh Kim Nhật Thành và, muộn hơn, xung quanh Kim Jong-Il, con
ông và người thừa kế của ông.
Phải là không ngạc nhiên đối với chúng ta rằng vận may kinh tế của
Nam và Bắc Triều Tiên đã rẽ theo các hướng khác nhau rõ rệt. Nền kinh tế chỉ
huy và hệ thống Tự lực của Kim Nhật Thành chẳng bao lâu đã chứng tỏ là một thảm
họa. Từ Bắc Triều Tiên không sẵn có những số liệu thống kê, mà là bí mật nhà
nước, để nói giảm nhẹ nhất. Tuy nhiên, bằng chứng sẵn có xác nhận cái chúng ta
biết từ các nạn đói xảy ra định kỳ quá thường xuyên: không chỉ sản xuất công
nghiệp đã không cất cánh, mà thực ra Bắc Triều Tiên đã trải qua một sự sụp đổ
về năng suất nông ngiệp. Thiếu quyền tài sản tư nhân đã có nghĩa rằng ít người có
khuyến khích để đầu tư hay cố gắng để làm tăng hoặc thậm chí để duy trì năng
suất. Chế độ bóp nghẹt, áp bức đã không thân thiện với đổi mới sáng tạo và
thích nghi các công nghệ mới. Nhưng Kim Nhật Thành, Kim Jong-Il, và những cánh
hẩu của họ đã không có ý định nào về cải cách hệ thống, hay đưa vào quyền tài
sản tư nhân, thị trường, hợp đồng tư nhân, hoặc thay đổi các thể chế kinh tế và
chính trị. Bắc Triều Tiên tiếp tục trì trệ về mặt kinh tế.
Trong khi đó, ở miền Nam, các thể chế kinh tế khích lệ đầu tư và
thương mại. Các nhà chính trị Nam Hàn đã đầu tư vào giáo dục, đạt các tỷ lệ cao
về [số người] biết đọc biết viết và đến trường. Các công ty Nam Hàn đã mau
chóng tận dụng lợi thế dân cư được giáo dục tương đối, các chính sách khích lệ
đầu tư và công nghiệp hóa, xuất khẩu và chuyển giao công nghệ. Nam Hàn mau
chóng trở thành một trong những “Nền kinh tế Thần kỳ” của Đông Á, một trong
những quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Vào cuối các năm 1990, chỉ trong vòng nửa thế kỷ, sự tăng trưởng
Nam Hàn và sự trì trệ Bắc Triều Tiên đã dẫn đến một khoảng cách mười lần giữa
hai nửa của đất nước một thời thống nhất này – hãy tưởng tượng sự chênh lệch
đến thế nào mà vài thế kỷ có thể tạo ra. Thảm họa kinh tế của Bắc Triều Tiên,
mà đã dẫn đến sự chết đói của hàng triệu người, khi đặt đối diện với thành công
kinh tế của Nam Hàn, gây ấn tượng sâu sắc: không phải văn hóa, chẳng phải địa
lý, cũng chẳng phải sự dốt nát có thể giải thích các con đường rẽ theo các
hướng hoàn toàn khác nhau của Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên. Chúng ta phải
ngó tới các thể chế để có một câu trả lời.
CÁC THỂ CHẾ KINH TẾ KHAI THÁC VÀ BAO GỒM
Các nước khác nhau về thành công kinh tế của họ bởi vì các thể chế
khác nhau của họ, các quy tắc ảnh hưởng đến nền kinh tế hoạt động như thế nào,
và các khuyến khích làm động cơ thúc đẩy người dân. Hãy tưởng tượng những người
vị thành niên ở Bắc Triều Tiên và Nam Hàn và họ kỳ vọng gì từ cuộc sống. Những
người ở miền Bắc trưởng thành trong nghèo khó, mà không có sáng kiến khởi
nghiệp kinh doanh, tính sáng tạo hay sự giáo dục thỏa đáng để chuẩn bị họ cho
việc làm cần đến kỹ năng. Phần lớn sự giáo dục mà họ nhận được ở trường học là
sự tuyên truyền thuần túy, với ý định trụ đỡ cho sự hợp pháp của chế độ; có ít
sách, nói chi đến máy tính. Sau khi học xong, mọi người phải vào quân đội mười
năm. Các vị thành niên này biết rằng họ sẽ không có khả năng để sở hữu tài sản,
bắt đầu một doanh nghiệp, hay trở nên thịnh vượng hơn cho dù nhiều người tiến
hành các hoạt động kinh tế bất hợp pháp để kiếm sống. Họ cũng biết rằng họ
không có sự tiếp cận hợp pháp đến các thị trường nơi họ có thể sử dụng các năng
khiếu của mình hay thu nhập của mình để mua các hàng hóa mà họ cần hay mong
muốn. Họ thậm chí còn không chắc chắn về loại quyền con người nào họ sẽ có.
Các vị thành niên ở miền Nam nhận được giáo dục tốt, đối mặt với
các khuyến khích cổ vũ chúng cố gắng và vượt trội trong nghề nghiệp mà họ chọn.
Nam Hàn là một nền kinh tế thị trường, dựa trên quyền tài sản tư nhân. Các vị
thành niên Nam Hàn biết, nếu thành công với tư cách doanh nhân hay người lao
động, rồi một ngày họ có thể tận hưởng thành quả của các khoản đầu tư và nỗ lực
của họ; họ có thể cải thiện mức sống của mình, mua xe hơi, nhà và chăm sóc sức
khỏe.
Ở miền Nam nhà nước ủng hộ hoạt động kinh tế. Cho nên là có thể
đối với các doanh nhân để vay tiền từ các ngân hàng và các thị trường tài
chính, đối với các công ty nước ngoài để tham gia chung phần với các hãng Nam
Hàn, đối với các cá nhân để lấy các khoản vay thế chấp để mua nhà. Ở miền Nam,
nhìn chung, bạn được tự do mở bất cứ doanh nghiệp nào bạn thích. Ở miền Bắc,
bạn không được. Ở miền Nam, bạn có thể thuê lao động, bán sản phẩm hay dịch vụ
của mình, tiêu tiền của mình trên thương trường theo bất cứ cách nào bạn muốn.
Ở miền Bắc, chỉ có các thị trường chợ đen. Các quy tắc khác nhau này là các thể
chế mà dưới chúng những người Bắc Triều Tiên và Nam Hàn sống.
Các thể chế kinh tế bao gồm [inclusive], ví dụ như các thể chế ở
Nam Hàn hay ở Hoa Kỳ, là các thể chế mà cho phép và khuyến khích sự tham gia
của đông đảo người dân vào các hoạt động kinh tế, mà lợi dụng tốt nhất tài năng
và kỹ năng của họ và cho phép các cá nhân đưa ra các lựa chọn họ muốn. Để là
bao gồm, các thể chế kinh tế phải đề cao quyền tài sản tư nhân an toàn, một hệ
thống luật pháp không thiên vị, và một sự cung ứng các dịch vụ công mà tạo ra
một sân chơi bằng phẳng trong đó người dân có thể trao đổi và [thỏa thuận, ký
kết] hợp đồng; nó cũng phải cho phép sự gia nhập của các doanh nghiệp mới và
cho phép người dân lựa chọn sự nghiệp của mình.
SỰ TƯƠNG PHẢN của Nam và Bắc Triều Tiên, và của Hoa Kỳ và Mỹ
Latin, minh họa một nguyên lý chung. Các thể chế kinh tế bao gồm khuyến khích
hoạt động kinh tế, sự tăng năng suất, và sự thịnh vượng kinh tế. Các quyền tài
sản tư nhân an toàn là chính yếu, bởi vì chỉ những người với các quyền như vậy
mới sẽ sẵn sàng đầu tư và tăng năng suất. Một nhà doanh nghiệp người kỳ vọng
đầu ra của mình bị ăn cắp, bị tước đoạt, hay bị đánh thuế hết sẽ có ít khuyến
khích để làm việc, nói chi đến bất cứ khuyến khích nào để cam kết tiến hành đầu
tư và đổi mới. Nhưng các quyền như vậy phải có cho đa số người dân trong xã
hội.
Vào năm 1680 chính phủ Anh đã tiến hành một cuộc điều tra dân số ở thuộc
địa Tây Ấn của nó, ở Barbados. Cuộc điều tra dân số tiết lộ rằng trong tổng số
cư dân vào khoảng 60.000 người của hòn đảo, thì 39.000 người là các nô lệ Phi
châu những người đã là tài sản của một phần ba dân cư còn lại. Thực ra, hầu hết
họ đã là tài sản của 175 chủ đồn điền mía lớn nhất, những người cũng sở hữu
phần lớn đất đai. Các chủ đồn điền lớn này đã có các quyền tài sản tư nhân an
toàn và được thực thi tốt đối với đất của họ thậm chí đối với các nô lệ của họ.
Nếu một chủ đồn điền đã muốn bán nô lệ cho chủ khác, ông ta đã có thể làm vậy
và kỳ vọng tòa án để thực thi một việc bán như vậy hay bất cứ hợp đồng khác nào mà ông đã ký. Vì sao? Trong số bốn mươi thẩm phán và
thẩm phán trị an trên đảo, có hai mươi chín là chủ đồn điền lớn. Hơn nữa, tất
cả tám sĩ quan quân đội cao cấp nhất đều là các chủ đồn điền lớn. Bất chấp các
quyền tài sản tư nhân và các hợp đồng an toàn, được xác định rõ, được thực thi
tốt cho elite của đảo, Barbados đã không có các thể chế kinh tế bao gồm, bởi vì
hai phần ba dân số đã là nô lệ mà không có sự tiếp cận nào đến giáo dục hay đến
các cơ hội kinh tế, và không có khả năng hay các khuyến khích để sử dụng tài
năng và kỹ năng của họ. Các thể chế kinh tế bao gồm đòi hỏi các quyền tài sản
tư nhân an toàn và các cơ hội kinh tế không chỉ cho elite mà cả cho một bộ phận
rộng lớn của xã hội.
Các quyền tài sản an toàn, luật, các dịch vụ công, và quyền tự do
hợp đồng và trao đổi, tất cả đều dựa vào nhà nước, thể chế với năng lực cưỡng
chế để áp đặt trật tự, ngăn chặn trộm cắp và gian lận, thực thi các hợp đồng
giữa các bên tư nhân. Để hoạt động tốt, xã hội cũng cần các dịch vụ công: đường
sá và mạng lưới giao thông để có thể vận chuyển hàng hóa; một hạ tầng cơ sở
công sao cho hoạt động kinh tế có thể hưng thịnh; và loại nào đó của sự điều
tiết, của quy chế để ngăn chặn gian lận và hành động bất lương. Mặc dù nhiều
trong số các dịch vụ công này có thể được cung cấp bởi các thị trường và các
công dân tư nhân, mức độ điều phối cần thiết để làm vậy trên quy mô lớn thường
vượt quá [khả năng của] tất cả trừ một nhà chức trách trung ương. Như vậy nhà
nước đan xen một cách không lay chuyển được vào các thể chế kinh tế, với tư
cách người thực thi luật pháp và trật tự, tài sản và các hợp đồng tư nhân, và
thường với tư cách nhà cung cấp chủ chốt của các dịch vụ công. Các thể chế kinh
tế bao gồm cần đến và sử dụng nhà nước.
Các thể chế kinh tế của Bắc Triều Tiên
hay của Mỹ Latin thuộc địa – các mita, ecomienda, hoặc repartimientođược mô tả trước đây – không có các tính
chất này. Quyền tài sản tư nhân không tồn tại ở Bắc Triều Tiên. Ở Mỹ Latin
thuộc địa, đã có tài sản tư nhân cho người Tây Ban Nha, nhưng tài sản của người
bản địa đã rất không an toàn. Cả trong hai loại xã hội này số đông quần chúng
nhân dân đã không thể đưa ra các quyết định kinh tế mà họ muốn; họ đã phải chịu
sự cưỡng bức hàng loạt. Trong cả hai loại xã hội, sức mạnh của nhà nước đã
không được dùng để tạo ra các dịch vụ công then chốt, thúc đẩy sự thịnh vượng.
Ở Bắc Triều Tiên, nhà nước đã xây dựng một hệ thống trường học để khắc sâu sự
tuyên truyền, nhưng đã không có khả năng ngăn chặn nạn đói. Ở Mỹ Latin thuộc
địa, nhà nước đã chú tâm vào cưỡng bức dân bản địa. Trong cả hai loại xã hội,
đã không có sân chơi bình đẳng hay một hệ thống pháp lý không thiên vị. Ở Bắc
Triều Tiên, hệ thống pháp lý là cánh tay của Đảng Cộng sản, và ở Mỹ Latin nó đã
là một công cụ phân biệt đối xử chống lại quần chúng nhân dân. Chúng ta gọi các
thể chế như vậy, mà có các tính chất ngược lại với tính chất của các thể chế mà
chúng ta đã gọi là các thể chế bao gồm, là các thể chế kinh tế khai thác
(extractive) – khai thác bởi vì các thể chế như vậy được thiết kể để vắt,
chiết, khai thác thu nhập và của cải từ một tập hợp con của xã hội để làm lợi
cho một tập con khác.
CÁC ĐỘNG CƠ CỦA SỰ THỊNH VƯỢNG
Các thể chế kinh tế bao gồm tạo ra các
thị trường bao gồm, mà không chỉ trao cho người dân quyền tự do để theo đuổi
nghề nghiệp phù hợp nhất với tài năng của họ trong cuộc sống mà cũng tạo ra một
sân chơi bằng phẳng tạo cho họ cơ hội để làm vậy. Những người có các ý tưởng
hay sẽ có khả năng khởi tạo các doanh nghiệp, những người lao động có xu hướng
đi làm các công việc nơi năng suất của họ lớn hơn, và các hãng kém hiệu quả có
thể được thay bằng các hãng hiệu quả hơn. Đối sánh việc người dân chọn nghề
nghiệp của mình thế nào dưới các thị trường bao gồm so với Peru và Bolivia
thuộc địa, nơi dưới mita, nhiều người đã bị cưỡng ép làm việc tại các mỏ
bạc và thủy ngân, bất chấp kỹ năng của họ hay liệu họ có muốn hay không. Các
thị trường bao gồm không chỉ là các thị trường tự do. Barbados trong thế kỷ
mười bảy cũng đã có các thị trường. Nhưng theo cùng cách mà nó đã thiếu các
quyền tài sản tư nhân cho tất cả trừ elite chủ đồn điền hạn hẹp, các thị trường
của nó còn xa mới bao gồm; các thị trường về nô lệ thực ra đã là một phần của
các thể chế kinh tế cưỡng bức một cách có hệ thống đa số dân cư và cướp đoạt
mất của họ khả năng để chọn nghề nghiệp và cách họ sử dụng tài năng của mình.
Các thể chế kinh tế bao gồm cũng mở đường cho hai động cơ khác của
sự thịnh vượng: công nghệ và giáo dục. Tăng trưởng kinh tế bền vững hầu như
luôn luôn đi cùng với những cải thiện công nghệ mà cho phép người dân (lao
động), đất đai, và vốn hiện tồn (nhà, máy móc hiện hành, và vân vân) trở nên
hiệu quả hơn. Hãy nghĩ về các cụ các kỵ của chúng ta, vừa hơn một thế kỷ trước,
những người đã không tiếp cận được đến máy bay, ô tô, hay hầu hết các tân dược
và chăm sóc sức khỏe mà bây giờ chúng ta coi là nghiễm nhiên, không nhắc đến hệ
thống ống nước trong nhà, điều hòa nhiệt độ, siêu thị, radio, hay phim ảnh; nói
chi đến công nghệ thông tin, máy móc tự động, hay máy móc điều khiển bằng máy
tính. Và lùi thêm vài thế hệ nữa, know-how công nghệ và mức sống còn thậm chí
lạc hậu hơn, nhiều đến mức chúng ta thấy khó để tưởng tượng hầu hết người dân
đã vật lộn với cuộc sống như thế nào. Những cải thiện này xảy ra như kết quả từ
khoa học và từ các doanh nhân như Thomas Edison, những người đã áp dụng khoa
học để tạo ra các doanh nghiệp sinh lời. Cái đã khiến cho quá trình này của đổi
mới sáng tạo trở nên có thể, là các thể chế kinh tế cổ vũ tài sản tư nhân, ủng
hộ các hợp đồng, tạo ra sân chơi bằng phẳng, và khuyến khích và cho phép các
doanh nghiệp mới có thể đưa các công nghệ mới vào cuộc sống. Vì thế không ngạc
nhiên rằng xã hội Hoa Kỳ, chứ không phải Mexico hay Peru, là xã hội đã tạo ra
Thomas Edison, và rằng Nam Hàn, chứ không phải Bắc Triều Tiên, tạo ra các công
ty đổi mới về mặt công nghệ như như Samsung và Hyundai ngày nay.
Gắn mật thiết với công nghệ là giáo dục, các kỹ năng, năng lực, và
know-how của lực lượng lao động, kiếm được trong các trường, ở nhà, và ở nơi
làm việc. Chúng ta hiệu quả hơn một thế kỷ trước hết sức nhiều không chỉ bởi vì
công nghệ tốt hơn được chứa đựng trong các máy móc mà cũng bởi vì know-how lớn
hơn mà những người lao động có được. Tất cả công nghệ trên thế giới sẽ có ít
ích lợi nếu không có những người lao động biết làm cho nó hoạt động thế nào.
Nhưng có nhiều kỹ năng và năng lực hơn khả năng đơn thuần để vận hành máy móc.
Chính là giáo dục và các kỹ năng của lực lượng lao động là cái tạo ra tri thức
khoa học mà dựa vào đó sự tiến bộ của chúng ta được dựng nên và là cái cho phép
sự thích nghi và sự chấp nhận làm theo các công nghệ này trong các ngành kinh
doanh khác nhau. Mặc dù chúng ta đã thấy trong chương 1 rằng nhiều nhà đổi mới
sáng tạo, như Thomas Edison, đã không học cao, các đổi mới đó đã đơn giản hơn
công nghệ hiện đại rất nhiều. Ngày nay sự thay đổi công nghệ đòi hỏi giáo dục
cả cho các nhà đổi mới lẫn cho người lao động. Và ở đây chúng ta thấy tầm quan
trọng của các thể chế kinh tế mà tạo ra sân chơi bằng phẳng. Hoa Kỳ có thể tạo
ra, hay thu hút từ các nước ngoài, những người giống như Bill Gates, Steve
Jobs, Sergey Brin, Larry Page, và Jeff Bezos, và hàng trăm nhà khoa học những
người đã thực hiện các phát minh cơ bản trong công nghệ thông tin, năng lượng
hạt nhân, công nghệ sinh học, và các lĩnh vực khác mà dựa vào đó các doanh nhân
khởi nghiệp này đã xây dựng các doanh nghiệp của mình. Cung tài năng có ở đó để
được khai thác bởi vì các vị thành niên ở Hoa Kỳ có sự tiếp cận đến nhiều việc
học ở trường như họ muốn hay họ có khả năng theo học. Bây giờ hãy tưởng tượng
một xã hội khác, thí dụ Congo hoặc Haiti, nơi phần lớn dân cư không có phương
tiện nào để theo học ở trường, hoặc nơi, nếu họ tìm được cách để đến trường,
chất lượng dạy là thảm hại, nơi các giáo viên không có mặt để dạy, và cho dù họ
có, có thể không có cuốn sách nào.
Mức giáo dục thấp của các nước nghèo bị gây ra bởi các thể chế
kinh tế mà không tạo ra các khuyến khích cho cha mẹ để giáo dục con em mình, và
bởi các thể chế chính trị mà không xui khiến chính phủ để xây dựng, cấp tài
chính, và hỗ trợ các trường và mong ước của cha mẹ và trẻ em. Cái giá, mà các
quốc gia này phải trả cho mức giáo dục thấp của dân cư của họ và cho sự thiếu
các thị trường bao gồm, là cao. Họ không động viên được tài năng mới sinh của
họ. Họ có nhiều Bill Gates tiềm năng và có lẽ một hay hai Albert Einsteins
những người đang làm việc như các nông dân nghèo, không được học hành, bị ép
làm những việc họ không muốn làm hay bị tuyển vào quân đội, bởi vì họ đã chẳng
bao giờ có cơ hội để thực hiện năng khiếu của họ trong đời.
Khả năng của các thể chế kinh tế để khai thác tiềm năng của các
thị trường bao gồm, khuyến khích đổi mới công nghệ, đầu tư vào con người, và
động viên tài năng và kỹ năng của số đông cá nhân là cốt yếu cho tăng trưởng
kinh tế. Giải thích vì sao rất nhiều thể chế kinh tế không thỏa mãn các mục
tiêu đơn giản này là chủ đề trung tâm của cuốn sách này.
CÁC THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ KHAI THÁC VÀ BAO GỒM
Tất cả các thể chế kinh tế được tạo ra bởi xã hội. Các thể chế
kinh tế của Bắc Triều Tiên, chẳng hạn, được áp đặt lên các công dân bởi những
người cộng sản, những người đã tiếp quản đất nước trong các năm 1940, trong khi
các thể chế kinh tế của Mỹ Latin được áp đặt bởi những kẻ chinh phục Tây Ban
Nha. Nam Hàn đã kết thúc với các thể chế kinh tế rất khác với miền Bắc bởi vì
những người khác với các lợi ích và mục tiêu khác đã đưa ra các quyết định về
tổ chức xã hội thế nào. Nói cách khác, Nam Hàn đã có một nền chính trị khác.
Chính trị là một quá trình theo đó một xã hội chọn ra các quy tắc
mà sẽ chi phối nó. Chính trị bao quanh các thể chế vì lý do đơn giản rằng trong
khi các thể chế bao gồm có thể là tốt cho sự thịnh vượng của một quốc gia, một
số người hay nhóm, chẳng hạn elite của Đảng Cộng sản ở Bắc Triều Tiên hay các
chủ đồn điền mía của Barbados thuộc địa, sẽ khấm khá hơn rất nhiều bằng cách
dựng lên các thể chế mà là các thể chế khai thác. Khi có sự xung đột về các thể
chế, cái gì xảy ra sẽ phụ thuộc vào những người nào hay các nhóm nào chiến
thắng trong trò chơi chính trị – ai có thể kiếm được nhiều sự ủng hộ, nhận được
các nguồn lực thêm, và tạo được các liên minh hữu hiệu hơn. Tóm lại, ai thắng
phụ thuộc vào phân bố quyền lực chính trị trong xã hội.
Các thể chế chính trị của một xã hội là chìa khóa quyết định kết
quả của trò chơi này. Chúng là các quy tắc chi phối các khuyến khích trong
chính trị. Chúng xác định việc chính phủ được chọn thế nào và phần nào của
chính phủ có quyền làm những gì. Các thể chế chính trị xác định ai có quyền lực
trong xã hội và quyền lực đó có thể được sử dụng cho các mục đích nào. Nếu sự
phân bố quyền lực là hẹp và không bị ràng buộc, thì các thể chế chính trị là
chuyên chế (absolutist), như được minh họa bởi các các nền quân chủ chuyên chế
trị vì trên khắp thế giới trong phần lớn lịch sử. Dưới các thể chế chính trị
chuyên chế như ở Bắc Triều Tiên và Mỹ Latin thuộc địa, những người có thể nắm
quyền lực này sẽ có khả năng đặt ra các thể chế kinh tế để làm giàu cho chính
họ và làm tăng quyền lực của họ gây phí tổn cho xã hội. Ngược lại, các thể chế
chính trị mà phân phối quyền lực rộng rãi trong xã hội và bắt nó phải chịu các
ràng buộc, là các thể chế đa nguyên. Thay cho việc được trao cho một cá nhân
duy nhất hay một nhóm hẹp, quyền lực chính trị thuộc về một liên minh rộng hay
một đa số của các nhóm.
Rõ ràng có một mối quan hệ mật thiết giữa chủ nghĩa đa nguyên (pluralism)
và các thể chế kinh tế bao gồm. Nhưng chìa khóa cho sự hiểu vì sao Nam Hàn và
Hoa Kỳ có các thể chế kinh tế bao gồm không chỉ là các thể chế chính trị đa
nguyên của chúng mà cũng là các nhà nước tập trung đủ và hùng mạnh của chúng.
Một sự tương phản đích đáng là quốc gia Đông Phi, Somalia. Như chúng ta sẽ thấy
muộn hơn trong cuốn sách này, quyền lực chính trị ở Somalia từ lâu đã được phân
phối rộng rãi – hầu như đa nguyên. Thực vậy không có nhà chức trách trung ương
nào mà có thể kiểm soát hay cho phép cái bất cứ ai làm. Xã hội bị chia rẽ thành
các thị tộc đối kháng sâu sắc mà không thể thống trị lẫn nhau. Quyền lực của
một thị tộc chỉ bị ràng buộc bởi súng của thị tộc khác. Sự phân bổ quyền lực
này dẫn không đến các thể chế bao gồm, mà đến hỗn loạn, và ở gốc rễ của nó là
nhà nước Somalia thiếu bất cứ sự tập trung hóa chính trị hay sự tập trung hóa
nhà nước nào, và sự bất lực của nó để thực thi ngay cả mức tối thiểu của luật
pháp và trật tự để ủng hộ hoạt động kinh tế, thương mại, hay thậm chí sự an
toàn cơ bản của các công dân của nó.
Max Weber, người chúng ta đã gặp trong chương trước, đã cung cấp
một định nghĩa nổi tiếng và được chấp nhận rộng rãi về nhà nước, đồng nhất nó
với “độc quyền về bạo lực hợp pháp” trong xã hội. Không có sự độc quyền như vậy
và một mức độ tập trung hóa mà nó cần phải có, nhà nước không thể đóng vai trò
của nó với tư cách người thực thi pháp luật và trật tự, chưa kể đến cung cấp
các dịch vụ công và cổ vũ và điều tiết hoạt động kinh tế. Khi nhà nước không
đạt hầu như bất cứ sự tập trung hóa chính trị nào, thì xã hội sớm muộn sẽ sa
đọa vào hỗn loạn, như Somalia đã sa vào.
Chúng ta sẽ nói đến các thể chế chính trị mà đủ tập trung và đa
nguyên như các thể chế chính trị bao gồm. Khi một trong hai điều kiện này không
thỏa mãn, chúng ta nói đến các thể chế như các thể chế chính trị khai thác.
Có sự đồng vận [synergy] mạnh giữa các thể chế kinh tế và chính
trị. Các thể chế chính trị khai thác tập trung quyền lực vào tay một elite hẹp
và đặt ít ràng buộc lên việc sử dụng quyền lực này. Các thể chế kinh tế sau đó
thường được tổ chức bởi elite này để khai thác các nguồn lực từ phần còn lại
của xã hội. Các thể chế kinh tế khai thác như thế đi cùng một cách tự nhiên với
các thể chế chính trị khai thác. Thực ra, chúng phải phụ thuộc một cách cố hữu
vào các thể chế chính trị khai thác cho sự sống sót của chúng. Các thể chế
chính trị bao gồm trao quyền lực một cách rộng rãi, sẽ có xu hướng nhổ bật rễ
các thể chế kinh tế mà tước đoạt nguồn lực của nhiều người, dựng các rào cản
gia nhập, và ngăn hoạt động của các thị trường sao cho chỉ một số ít được hưởng
lợi.
Ở Barbados, chẳng hạn, hệ thống đồn điền dựa trên sự bóc lột nô lệ
đã không thể sống sót mà không có các thể chế chính trị ngăn và loại trừ hoàn
toàn các nô lệ khỏi các quá trình chính trị. Hệ thống kinh tế gây nghèo khó cho
hàng triệu người vì lợi ích của một elite cộng sản hẹp ở Bắc Triều Tiên cũng
không thể tưởng tượng được mà không có sự thống trị chính trị hoàn toàn của
Đảng Cộng Sản.
Mối quan hệ đồng vận [synergistic] này giữa các thể chế kinh tế
khai thác và các thể chế chính trị khai thác tạo ra một vòng phản hồi mạnh: các
thể chế chính trị cho phép elite kiểm soát quyền lực chính trị để chọn các thể
chế kinh tế với ít ràng buộc hay ít lực lượng chống đối. Chúng cũng cho phép
elite tổ chức các thể chế chính trị tương lai và sự tiến hóa của chúng. Các thể
chế kinh tế khai thác, đến lượt mình, làm giàu cho cùng elite, và sự giàu có và
quyền lực kinh tế củng cố sự thống trị chính trị của họ. Ở Barbados hay ở Mỹ
Latin, chẳng hạn, các nhà thực dân đã có khả năng sử dụng quyền lực chính trị
của họ để áp đặt một tập các thể chế kinh tế khiến cho họ kiếm được các gia tài
kếch xù với sự tổn hại của phần còn lại của dân cư. Những nguồn lực mà các thể
chế kinh tế này tạo ra đã cho phép những elite này xây dựng các quân đội và các
lực lượng an ninh để bảo vệ sự độc quyền tuyệt đối của họ về quyền lực chính
trị. Hệ lụy dĩ nhiên là, các thể chế chính trị khai thác và các thể chế kinh tế
khai thác ủng hộ lẫn nhau và có xu hướng tồn tại dai dẳng.
Thực ra, có nhiều hơn sự đồng vận giữa các thể chế kinh tế khai
thác và chính trị khai thác. Khi các elite hiện tồn bị thách thức dưới các thể
chế chính trị khai thác và những người mới đến thắng, những người mới đến cũng
thế chỉ phải đối mặt với ít ràng buộc, Như vậy họ có các khuyến khích để duy
trì các thể chế chính trị này và tạo ra một tập tương tự của các thể chế kinh
tế, như Porfirio Díaz và elite xung quanh ông đã làm vào cuối thế kỷ mười chín
ở Mexico.
Các thể chế kinh tế bao gồm, đến lượt, được rèn đúc trên nền tảng
được xây bởi các thể chế chính trị bao gồm, mà khiến cho quyền lực được phân
phối rộng trong xã hội và kiềm chế việc sử dụng tùy tiện nó. Các thể chế chính
trị như vậy cũng làm cho việc những người khác chiếm đoạt quyền lực và làm xói
mòn nền tảng của các thể chế bao gồm trở nên khó hơn. Những người kiểm soát
quyền lực chính trị không thể dễ dàng sử dụng nó để dựng lên các thể chế kinh
tế khai thác cho lợi ích riêng của họ. Các thể chế kinh tế bao gồm, đến lượt
mình, tạo ra một sự phân bổ nguồn lực công bằng hơn, tạo thuận lợi cho sự bền
bỉ của các thể chế chính trị bao gồm.
Đã không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng vào năm 1618, khi
Công ty Virginia đã trao đất cho, và đã giải phóng các nhà thuộc địa, mà trước
đó nó đã thử cưỡng bức, khỏi các hợp đồng hà khắc của họ, và Đại Hội Đồng trong
năm tiếp theo đã cho phép các nhà thuộc địa để bắt đầu cai quản chính họ. Các
quyền kinh tế mà không có các quyền chính trị không được các nhà thuộc địa tin
cậy, những người đã thấy các nỗ lực kiên trì của Công ty Virginia để cưỡng bức
họ. Các nền kinh tế này cũng đã chẳng ổn định và lâu bền. Thực ra, những sự kết
hợp của các thể chế khai thác và các thể chế bao gồm nói chung không ổn định.
Các thể chế kinh tế khai thác dưới các thể chế chính trị bao gồm không chắc
sống sót trong thời gian dài, như thảo luận của chúng ta về Barbados gợi ý.
Tương tự, các thể chế kinh tế bao gồm sẽ không được ủng hộ và cũng
đã chẳng được ủng hộ bởi các thể chế chính trị khai thác. Hoặc chúng sẽ biến
thành các thể chế kinh tế khai thác làm lợi cho các nhóm lợi ích hẹp nắm quyền,
hoặc động học kinh tế mà chúng tạo ra sẽ gây bất ổn cho các thể chế chính trị
khai thác, mở đường cho sự nổi lên của các thể chế chính trị bao gồm. Các thể
chế kinh tế bao gồm cũng có xu hướng làm giảm các lợi ích mà elite có thể hưởng
bằng thống trị các thể chế chính trị khai thác, vì các thể chế đó đối mặt với
cạnh tranh trên thương trường và bị ràng buộc bởi các hợp đồng và các quyền tài
sản của phần còn lại của xã hội.
VÌ SAO KHÔNG LUÔN LUÔN CHỌN SỰ THỊNH VƯỢNG?
Các thể chế chính trị và kinh tế, mà rốt cuộc là các lựa chọn của
xã hội, có thể là bao gồm và khuyến khích sự tăng trưởng kinh tế. Hoặc chúng có
thể là khai thác và trở thành những vật cản trở sự tăng trưởng kinh tế. Các
quốc gia thất bại khi chúng có các thể chế kinh tế khai thác, được ủng hộ bởi
các thể chế chính trị khai thác mà cản trở và thậm chí chặn sự tăng trưởng kinh
tế. Nhưng điều này có nghĩa rằng sự lựa chọn các thể chế – tức là, chính trị
học về các thể chế – là cốt yếu cho sự tìm kiếm của chúng ta để hiểu các lý do
cho thành công và thất bại của các quốc gia. Chúng ta phải hiểu vì sao chính
trị của một số xã hội đã dẫn đến các thể chế bao gồm mà cổ vũ tăng trưởng kinh
tế, trong khi chính trị của đại đa số các xã hội trong suốt lịch sử đã dẫn đến,
và ngày nay vẫn dẫn đến, các thể chế kinh tế mà cản trở tăng trưởng kinh tế.
Có thể có vẻ hiển nhiên rằng mọi người đều có lợi ích trong việc
tạo ra loại thể chế kinh tế mà sẽ mang lại sự thịnh vượng. Chẳng phải mọi công
dân, mọi chính trị gia, và thậm chí một nhà độc tài cướp bóc đã đều muốn làm
cho nước mình càng giàu càng tốt?
Hãy quay lại Vương quốc Kongo mà chúng ta đã thảo luận trước đây.
Mặc dù vương quốc này đã sụp đổ trong thế kỷ mười bảy, nó đã cho cái tên cho
một nước hiện đại mà đã trở nên độc lập khỏi sự cai trị thuộc địa Bỉ năm 1960.
Với tư cách một chính thể độc lập, Congo đã trải qua sự sa sút kinh tế hầu như
không bị gián đoạn và sự nghèo khó gia tăng dưới sự cai trị của Joseph Mobutu
giữa 1965 và 1997. Sự sa sút này đã tiếp tục sau khi Mobutu bị Laurent Kabila
lật đổ. Mobutu đã tạo ra một tập của các thể chế kinh tế khai thác hết sức. Các
công dân bị bần cùng hóa, nhưng Mobutu và elite quanh ông ta, được biết đến như
Les Grosses Légumes (các Quan to), đã trở nên cực kỳ giàu có. Mobutu đã xây
dựng cho mình một lâu đài ở quê nơi ông sinh, Gbadolite, ở miền bắc, với một
sân bay đủ lớn để máy bay phản lực siêu thanh Concord hạ cánh, máy bay mà ông
thường thuê từ Hãng Hàng không Pháp, Air France, cho việc đi châu Âu. Ở châu Âu
ông đã mua các lâu đài và sở hữu các dải đất lớn của Brussells, thủ đô Bỉ.
Chẳng phải đã tốt hơn cho Mobutu để dựng lên các thể chế mà làm
tăng của cải của những người Congo hơn là khoét sâu sự nghèo khó của họ? Nếu
giả như Mobutu đã xoay xở để làm tăng sự thịnh vượng của quốc gia mình, chẳng
phải ông ta đã có thể tước đoạt còn nhiều tiền hơn, mua một máy bay Concord
thay cho thuê một chiếc, có nhiều nhà lớn và lâu đài hơn, có lẽ một quân đội
lớn hơn và hùng mạnh hơn? Đáng tiếc đối với công dân của nhiều quốc gia trên
thế giới, câu trả lời là không. Các thể chế kinh tế mà tạo ra các khuyến khích
cho tiến bộ kinh tế có thể đồng thời tái phân phối thu nhập và quyền lực theo
một cách mà kẻ độc tài cướp bóc và những kẻ khác có quyền lực chính trị có thể
trở nên tệ hơn, chứ không phải khá hơn.
Vấn đề cơ bản là, sẽ nhất thiết có những tranh cãi và xung đột về
các thể chế kinh tế. Các thể chế khác nhau có các hệ quả khác nhau đối với sự
thịnh vượng của quốc gia, sự thịnh vượng đó được phân phối thế nào, và ai có quyền
lực. Tăng trưởng kinh tế, do các thể chế có thể mang lại, tạo ra cả những người
thắng và những kẻ thua. Điều này đã là rõ trong Cách mạng Công nghiệp ở nước
Anh, mà đã đặt nền móng của sự thịnh vượng chúng ta thấy ở các nước giàu của
thế giới ngày nay. Nó đã tập trung vào một loạt những thay đổi công nghệ mở
đường trong sức hơi nước, giao thông, và sản xuất hàng dệt. Cho dù cơ khí hóa
đã dẫn đến sự tăng khổng lồ về thu nhập và cuối cùng đã trở thành nền tảng của
xã hội công nghiệp hiện đại, nó đã bị phản đối kịch liệt bởi nhiều người. Không
phải bởi vì sự dốt nát hay sự thiển cận; hoàn toàn ngược lại. Đúng hơn, sự phản
đối tăng trưởng kinh tế như vậy, đáng tiếc, có logic riêng của nó. Tăng trưởng
kinh tế và thay đổi công nghệ luôn đi cùng với cái mà nhà kinh tế học vĩ đại
Joseph Schumpeter đã gọi là sự phá hủy sáng tạo. Chúng thay cái cũ bằng cái
mới. Các khu vực mới thu hút nguồn lực từ các khu vực cũ. Các hãng mới lấy mất
công việc kinh doanh của các hãng đã được xác lập. Các công nghệ mới làm cho
các kỹ năng và các máy móc hiện hành trở nên lỗi thời. Quá trình tăng trưởng
kinh tế và các thể chế kinh tế bao gồm mà sự tăng trưởng dựa vào, tạo ra những
người thua cũng như những kẻ thắng trên chính trường và trên thương trường. Sự
sợ hãi phá hủy sáng tạo thường nằm ở gốc rễ của sự chống đối các thể chế kinh
tế và chính trị bao gồm.
Lịch sử Âu châu cho một thí dụ sinh động về các hậu quả của sự phá
hủy sáng tạo. Vào trước Cách mạng công nghiệp trong thế kỷ mười tám, các chính
phủ của hầu hết các nước Âu châu đã được kiểm soát bởi các giới quý tộc và
elite truyền thống, mà nguồn thu nhập chính của họ đã từ việc làm chủ đất hoặc
từ các đặc quyền buôn bán mà họ được hưởng nhờ sự độc quyền được ban cho và các
rào cản tham gia được áp đặt bởi các quốc vương. Phù hợp với ý tưởng về sự phá
hủy sáng tạo, sự mở rộng của các ngành công nghiệp, các nhà máy, và các thị
trấn đã lấy đi các nguồn lực từ đất, đã làm giảm tiền thuê [tô] đất, đã làm
tăng lương mà các địa chủ phải trả cho những người làm công của họ. Các elite này
cũng đã thấy sự nổi lên của các nhà kinh doanh và thương gia mới làm xói mòn
các đặc quyền buôn bán của họ. Xét về mọi mặt, họ đã là những người thua thiệt
kinh tế rõ ràng do công nghiệp hóa. Việc đô thị hóa và sự nổi lên của các tầng
lớp trung lưu và lao động có ý thức về mặt xã hội cũng đã thách thức độc quyền
chính trị của các giới quý tộc có nhiều đất. Như thế với sự mở rộng của Cách
mạng Công nghiệp, các giới quý tộc đã không chỉ là những kẻ thua về mặt kinh
tế; họ cũng còn bị rủi ro trở thành những kẻ thua về mặt chính trị, mất ảnh
hưởng của họ lên quyền lực chính trị. Với quyền lực kinh tế và chính trị của họ
bị đe dọa, các elite này thường đã tạo ra sự chống đối ghê gớm chống lại công
nghiệp hóa.
Tầng lớp quý tộc đã không phải là người thua duy nhất từ công
nghiệp hóa. Các thợ thủ công, mà các kỹ năng chân tay của họ được thay thế bằng
cơ giới hóa, tương tự cũng đã chống sự mở rộng công nghiệp. Nhiều người đã tổ
chức chống lại nó, náo loạn và phá hủy máy móc mà họ coi là chịu trách nhiệm về
sự sụt giảm sinh kế của họ. Họ đã là các Luddite, một từ mà ngày nay trở thành
đồng nghĩa với chống đối thay đổi công nghệ. John Key, nhà sáng chế Anh của
“chiếc thoi bay” trong năm 1733, một trong những cải thiện đáng kể trong cơ
giới hóa dệt vải, nhà của ông đã bị các Luddite đốt trong năm 1753. James
Hargreaves, nhà sáng chế của “spinning jenny-máy kéo sợi cơ khí”, một cải thiện
bổ sung mang tính cách mạng trong xe sợi, đã nhận được sự đối xử tương tự.
Trên thực tế, các thợ thủ công đã ít hiệu quả hơn các địa chủ
và các elite rất nhiều trong chống lại công nghiệp hóa. Các Luddite đã không có
quyền lực chính trị – khả năng để ảnh hưởng đến các kết quả chính trị chống lại
mong muốn của các nhóm khác – của giới quý tộc có nhiều đất. Ở Anh, công nghiệp
hóa đã tiến bước, bất chấp sự chống đối của các Luddite, bởi vì sự chống đối
của giới quý tộc, tuy thực, đã câm lặng. Ở các đế chế Áo-Hung và Nga, nơi các
quốc vương chuyên quyền và các quý tộc đã có thể mất nhiều hơn rất nhiều, công
nghiệp hóa đã bị chặn. Hậu quả là, các nền kinh tế của Áo-Hung và Nga bị đình
trệ. Họ đã tụt lại sau các quốc gia Âu châu khác, nơi tăng trưởng kinh tế đã
cất cánh trong thế kỷ mười chín.
Bất kể thành công và thất bại của các nhóm cụ thể, một bài học là
rõ: các nhóm hùng mạnh thường đứng lên chống lại tiến bộ kinh tế và chống lại
các động cơ của sự thịnh vượng. Tăng trưởng kinh tế không chỉ là một quá trình
của các máy móc nhiều hơn và tốt hơn, của những con người được giáo dục nhiều
hơn và tốt hơn, mà cũng là một quá trình hình thành và làm mất ổn định gắn với
sự phá hủy sáng tạo rộng rãi. Như thế sự tăng trưởng tiến lên chỉ nếu không bị
chặn bởi những kẻ thua kinh tế những người lường trước rằng các đặc quyền kinh
tế của họ sẽ bị mất và bởi những kẻ thua chính trị những người sợ rằng quyền
lực chính trị của họ bị xói mòn.
Sự xung đột về các nguồn lực khan hiếm, thu nhập và quyền lực,
chuyển sang sự xung đột về các quy tắc của trò chơi, các thể chế kinh tế, mà sẽ
xác định các hoạt động kinh tế và ai sẽ được hưởng lợi từ chúng. Khi có một xung
đột, những mong muốn của tất cả các bên không thể được thỏa mãn đồng thời. Một
số sẽ bị đánh bại và bị thất vọng, trong khi những người khác sẽ thành công
trong bảo đảm các kết quả họ thích. Ai là những người thắng của cuộc xung đột
này, có các hệ lụy cơ bản đến quỹ đạo kinh tế của một quốc gia. Nếu các nhóm
đứng lên chống tăng trưởng là những người thắng, họ có thể thành công chặn sự
tăng trưởng kinh tế, và nền kinh tế sẽ đình trệ.
Logic của việc vì sao kẻ hùng mạnh không nhất thiết muốn dựng lên
các thể chế kinh tế mà thúc đẩy thành công kinh tế, có thể mở rộng dễ dàng sang
sự lựa chọn các thể chế chính trị. Trong một chính thể chuyên chế, một số elite
có thể sử dụng quyền lực để dựng lên các thể chế kinh tế họ ưa thích. Phải
chăng họ quan tâm đến việc thay đổi các thể chế chính trị để làm cho chúng đa
nguyên hơn? Nhìn chung là không, vì việc này chỉ pha loãng quyền lực chính trị
của họ, làm cho khó khăn hơn, có thể là không thể, đối với họ để tổ chức các
thể chế kinh tế nhằm thúc đẩy các lợi ích riêng của họ. Ở đây chúng ta lại thấy
một nguồn sẵn của xung đột. Những người chịu đựng các thể chế kinh tế khai thác
không thể hy vọng vào các nhà cai trị chuyên chế để họ tự nguyện thay đổi các
thể chế chính trị và phân chia lại quyền lực trong xã hội. Cách duy nhất để làm
thay đổi các thể chế chính trị này là phải buộc elite tạo ra các thể chế đa
nguyên hơn.
Theo cùng cách rằng không có lý do vì sao các thể chế chính trị
lại tự động trở nên đa nguyên hơn, không có xu hướng tự nhiên nào hướng tới sự
tập trung hóa chính trị. Chắc chắn có các khuyến khích để tạo ra các thể chế
nhà nước tập trung hơn trong bất cứ xã hội nào, nhất là trong các xã hội không
có sự tập trung hóa nào. Thí dụ, ở Somalia, nếu một thị tộc tạo ra một nhà nước
tập trung có khả năng áp đặt trật tự lên đất nước này, việc này có thể dẫn đến
các lợi ích kinh tế và khiến cho thị tộc này giàu hơn. Cái gì cản việc này? Rào
cản chính cho sự tập trung hóa chính trị lại là một dạng của sự sợ hãi thay
đổi: bất cứ thị tộc, nhóm hay chính trị gia nào thử tập trung quyền lực vào nhà
nước cũng sẽ tập trung quyền lực vào tay của chính họ, và việc này chắc gặp
phải sự giận dữ của các thị tộc, nhóm, và các cá nhân khác, những người sẽ là
kẻ thua về mặt chính trị của quá trình này. Thiếu sự tập trung chính trị có nghĩa
không chỉ là thiếu luật pháp và trật tự trong phần lớn của một lãnh thổ, mà
cũng là có nhiều diễn viên với đủ quyền lực để chặn hay phá vỡ sự việc, và nỗi
sợ về sự chống đối và phản ứng bạo lực của họ sẽ thường làm nhụt chí nhiều
người có thể trở thành người tiến hành tập trung hóa. Sự tập trung hóa chính
trị là có khả năng chỉ khi một nhóm người đủ mạnh hơn những nhóm khác để xây
dựng một nhà nước. Ở Somalia, quyền lực được cân bằng đồng đều, và không một
thị tộc nào có thể áp đặt ý chí của mình lên bất cứ thị tộc nào khác. Vì thế,
sự thiếu tập trung chính trị tồn tại dai dẳng.
SỰ THỐNG KHỔ ĐẰNG ĐẴNG CỦA CONGO
Có ít thí dụ tốt hơn, hay phiền muộn hơn về các lực lượng giải
thích vì sao thịnh vượng kinh tế lại hiếm hoi một cách dai dẳng đến vậy dưới các
thể chế khai thác hoặc minh họa sự đồng vận giữa các thể chế kinh tế khai thác
và các thể chế chính trị khai thác hơn là Congo. Các khách viếng thăm người Bồ
Đào Nha và Hà Lan đến Congo vào các thế kỷ mười lăm và mười sáu đã để ý đến “sự
nghèo khó khốn cùng” ở đó. Công nghệ đã thô sơ theo các tiêu chuẩn Âu châu, với
những người Kongo đã không có chữ viết, bánh xe, cũng chẳng có cày. Lý do cho
sự nghèo khó này, và sự miễn cưỡng của những nông dân Kongo để chấp nhận những
công nghệ tốt hơn khi họ biết về chúng, là rõ từ các tường thuật lịch sử. Đã là
do bản chất khai thác của các thể chế kinh tế của nước này.
Như chúng ta đã thấy, Vương quốc Kongo đã được cai trị bởi nhà vua
ở Mbanza, São Salvador sau này. Các vùng xa thủ đô được cai trị bởi một elite
những người đã đóng các vai trò thống đốc của các phần khác nhau của vương
quốc. Sự giàu có của tầng lớp elite này đã dựa trên các đồn điền nô lệ xung
quanh São Salvador và việc khai thác thuế từ phần còn lại của đất nước. Chế độ
nô lệ đã là trung tâm của nền kinh tế, được dùng bởi elite để cung cấp cho các
đồn điền riêng của họ và bởi những người Âu châu trên bờ biển. Các loại thuế đã
rất tùy tiện; một loại thuế thậm chí đã được thu mỗi khi mũ của vua rơi xuống.
Để trở nên thịnh vượng hơn, người dân Kongo lẽ ra đã phải tiết kiệm và đầu tư –
thí dụ, bằng cách mua các chiếc cày. Nhưng đã không bõ công, vì mọi sản lượng
thêm mà họ sản xuất ra với công nghệ tốt hơn đều sẽ bị vua và elite của ông ta
tước đoạt. Thay cho đầu tư để làm tăng năng suất của họ và bán sản phẩm của họ
trên thị trường, những người Kongo đã chuyển các làng của họ ra xa thị trường;
họ đã cố ra càng xa đường càng tốt, nhằm để giảm việc bị tước đoạt và để thoát
khỏi tầm với của bọn buôn bán nô lệ.
Sự nghèo khó của Kongo vì thế đã là kết quả của các thể chế kinh
tế khai thác mà chặn tất cả các động cơ của sự thịnh vượng hay thậm chí khiến
chúng hoạt động ngược lại. Chính phủ Kongo đã cung cấp rất ít dịch vụ công cho
các công dân của mình, không ngay cả các dịch vụ cơ bản, như các quyền tài sản
an toàn hay luật pháp và trật tự. Ngược lại, bản thân chính phủ đã là mối đe
dọa lớn nhất cho tài sản và các quyền con người của các thần dân của nó. Chế độ
nô lệ, đã có nghĩa rằng thị trường cơ bản nhất, một thị trường lao động bao gồm
nơi người dân có thể chọn nghề hay việc làm của mình theo những cách mà hết sức
cốt yếu cho một nền kinh tế thịnh vượng, đã không tồn tại. Hơn nữa, thương mại
đường dài và các hoạt động buôn bán đã được kiểm soát bởi nhà vua và chỉ mở ra
cho những người gắn với ông ta. Mặc dù elite nhanh chóng biết chữ sau khi những
người Bồ Đào Nha đưa chữ viết vào, nhà vua đã không có nỗ lực nào để truyền bá
sự biết đọc biết viết cho tuyệt đại đa số dân cư.
Tuy nhiên, dù “nghèo khó khốn cùng” đã là phổ biến rộng rãi, các
thể chế khai thác của Kongo có logic riêng hoàn hảo của chúng: chúng làm cho
một số ít người, những người có quyền lực chính trị, rất giàu. Trong thế kỷ
mười sáu, vua Kongo và tầng lớp quý tộc đã có thể nhập khẩu các hàng hóa xa xỉ
Âu châu và được bao quanh bởi những người hầu và nô lệ.
Gốc rễ của các thể chế kinh tế của xã hội Kongo bắt nguồn từ sự
phân bổ quyền lực chính trị trong xã hội và như thế là từ bản chất của các thể
chế chính trị. Đã chẳng có gì chặn nhà vua khỏi lấy tài sản hay thân thể của
người dân, khác hơn sự đe dọa nổi loạn. Mặc dù sự đe dọa này là thực, nhưng đã
không đủ để làm cho người dân hay tài sản của họ được an toàn. Các thể chế
chính trị của Kongo đã thực sự là chuyên chế, khiến cho vua và elite về cơ bản
không bị ràng buộc nào, và đã không cho các công dân tiếng nói nào về cách tổ
chức xã hội của họ.
Tất nhiên, không khó để thấy rằng các thể chế của Kongo tương phản
sắc nét với các thể chế chính trị bao gồm nơi quyền lực bị ràng buộc, bị chế
ngự và được phân bổ rộng rãi. Các thể chế chuyên chế của Kongo được giữ đúng vị
trí bởi quân đội. Nhà vua có một quân đội thường trực năm ngàn quân vào giữa
thế kỷ mười bảy, mà nòng cốt là năm trăm lính ngự lâm – một lực lượng kinh
khủng vào thời đó. Vì sao nhà vua và tầng lớp quý tộc lại hết sức háo hức chấp
nhận các vũ khí Âu châu như thế là dễ hiểu.
Đã không có cơ hội nào về sự tăng trưởng kinh tế bền vững dưới tập
này của các thể chế kinh tế và thậm chí các khuyến khích cho việc tạo ra sự
tăng trưởng tạm thời cũng đã hết sức hạn chế. Cải cách các thể chế kinh tế để
cải thiện các quyền tài sản cá nhân đã có thể khiến cho xã hội Kongo nói chung
thịnh vượng hơn. Nhưng không chắc là elite được lợi từ sự thịnh vượng rộng hơn
này. Thứ nhất, các cải cách như vậy làm cho elite thành những kẻ thua về kinh
tế, bằng cách làm xói mòn sự giàu có mà buôn bán nô lệ và các đồn điền nô lệ
mang lại cho họ. Thứ hai, các cải cách như vậy là có thể chỉ nếu quyền lực
chính trị của nhà vua và elite bị cắt xén. Thí dụ, nếu nhà vua tiếp tục chỉ huy
năm trăm ngự lâm quân của ông, ai tin một công bố rằng chế độ nô lệ được bãi
bỏ? Cái gì chặn nhà vua khỏi việc đổi ý của ông sau đó? Bảo đảm thực tế duy
nhất là một sự thay đổi về các thể chế chính trị sao cho các công dân có được
quyền lực chính trị đối lập nào đó, trao cho họ tiếng nói nào đó về thuế hay về
cái các ngự lâm quân đã làm. Nhưng trong trường hợp này đáng nghi rằng việc duy
trì sự tiêu dùng và phong cách sống của nhà vua và elite là cao trong danh sách
ưu tiên của họ [của các công dân]. Trong kịch bản này, những thay đổi tạo ra
các thể chế kinh tế tốt hơn làm cho nhà vua và giới quý tộc thành những kẻ thua
về mặt kinh tế và chính trị.
Sự tương tác giữa các thể chế kinh tế và chính trị năm trăm năm
trước vẫn thích đáng cho việc hiểu vì sao nhà nước Congo hiện đại hiện nay vẫn nghèo
khổ. Sự đến của các nhà cai trị Âu châu trong khu vực này, và sâu hơn vào lưu
vực sông Congo vào thời “tranh giành châu Phi” vào cuối thế kỷ mười chín, đã
dẫn đến một sự bất an toàn của các quyền con người và tài sản thậm chí còn quá
xá hơn cả thời tiền thuộc địa ở Kongo. Ngoài ra, nó tái tạo hình mẫu của các
thể chế khai thác và chủ nghĩa chuyên chế trao quyền và làm giàu cho một số ít
gây tổn hại cho số đông, mặc dù số ít bây giờ là các nhà thực dân Bỉ, đặc biệt
là Vua Leopold II.
Khi Congo
trở nên độc lập vào năm 1960, cùng hình mẫu của các thể chế, các khuyến khích,
và thành tích kinh tế đã tự tái tạo mình. Các thể chế kinh tế khai thác này của
Congo
đã lại được ủng hộ bởi các thể chế chính trị khai thác cao độ. Tình hình đã còn
tồi tệ hơn bởi vì chủ nghĩa thực dân Âu châu đã tạo ra một chính thể, Congo,
được tạo thành từ nhiều nhà nước tiền thuộc địa khác nhau và các xã hội mà nhà
nước quốc gia, được điều hành từ Kinshasa, đã ít kiểm soát được. Mặc dù Tổng
thống Mobutu đã sử dụng nhà nước để làm giàu cho mình và cho các cánh hẩu của
ông – thí dụ, qua chương trình Zaire hóa năm 1973, mà dính líu đến sự tước đoạt
hàng loạt các lợi ích kinh tế nước ngoài – ông đã đứng đầu một nhà nước không
được tập trung hóa với ít quyền lực đối với phần lớn đất nước, và đã phải kêu
gọi sự trợ giúp của nước ngoài để chặn các tỉnh Katanga và Kasai ly khai trong
các năm 1960. Sự thiếu tập trung hóa chính trị này, hầu như đến điểm hoàn toàn
sụp đổ của nhà nước, là một nét đặc trưng mà Congo chia sẻ với phần lớn của châu
Phi hạ-Sahara.
Cộng hòa Dân chủ Congo
hiện đại vẫn nghèo bởi vì các công dân của nó vẫn thiếu các thể chế kinh tế mà
tạo ra các khuyến khích cơ bản làm cho một xã hội thịnh vượng. Không phải là
địa lý, văn hóa, hay sự ngu dốt của các công dân hay của các chính trị gia của
nó là cái giữ Congo nghèo, mà là các thể chế kinh tế khai thác của nó. Những
thể chế này vẫn tồn tại sau tất cả những thế kỷ này bởi vì quyền lực chính trị
tiếp tục được tập trung một cách hẹp trong tay của một elite những người có ít
khuyến khích để thực thi các quyền tài sản an toàn cho người dân, để cung cấp
các dịch vụ công cơ bản mà sẽ cải thiện chất lượng cuộc sống, hay để cổ vũ cho
sự tiến bộ kinh tế. Đúng hơn, lợi ích của họ là để khai thác thu nhập và duy
trì quyền lực của họ. Họ đã không sử dụng quyền lực này để xây dựng một nhà
nước tập trung, vì để làm thế sẽ tạo ra cùng các vấn đề về đối lập và các thách
thức chính trị thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có thể tạo ra. Hơn nữa, như ở phần
lớn của phần còn lại của châu Phi hạ-Sahara, sự đấu đá nội bộ quyết liệt được
kích bởi các nhóm đối thủ mưu toan kiểm soát các thể chế khai thác đã phá hủy
bất cứ xu hướng tập trung hóa nhà nước nào mà đã có thể tồn tại.
Lịch sử của Vương quốc Kongo, và lịch sử gần đây hơn của Congo,
minh họa một cách sinh động cho việc các thể chế chính trị xác định các thể chế
kinh tế ra sao và, thông qua các thể chế này, xác định các khuyến khích kinh tế
và quy mô cho tăng trưởng kinh tế như thế nào. Nó cũng minh họa mối quan hệ
cộng sinh giữa chủ nghĩa chuyên chế chính trị và các thể chế kinh tế trao quyền
và làm giàu cho số ít gây thiệt hại cho số đông.
TĂNG TRƯỞNG DƯỚI CÁC THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ KHAI THÁC
Có hai cách khác biệt nhưng bổ sung cho nhau mà theo đó tăng
trưởng có thể nổi lên dưới các thể chế chính trị khai thác. Thứ nhất, cho dù
các thể chế kinh tế là khai thác, tăng trưởng là có thể khi elite có thể trực
tiếp phân bổ các nguồn lực cho các hoạt động có năng suất cao mà bản thân họ
kiểm soát. Một thí dụ nổi bật của loại tăng trưởng này dưới các thể chế khai
thác đã là các Đảo vùng Caribe giữa các thế kỷ mười bảy và mười tám. Hầu hết
người dân đã là các nô lệ, làm việc dưới các điều kiện khủng khiếp ở các đồn
điền, sống hầu như không trên mức sống qua ngày. Nhiều người đã chết do suy
dinh dưỡng và kiệt sức. Ở Barbados, Cuba, Haiti, và Jamaica trong các thế kỷ
mười bảy và mười tám, một thiểu số nhỏ, elite đồn điền, đã kiểm soát mọi quyền
lực chính trị và sở hữu tất cả các tài sản, bao gồm tất cả các nô lệ. Trong khi
đa số đã không có quyền nào, quyền sở hữu và tài sản của elite đồn điền đã được
bảo vệ kỹ. Bất chấp các thể chế kinh tế khai thác mà đã bóc lột một cách dã man
đa số dân cư, các đảo này đã là giữa các nơi giàu nhất trên thế giới, bởi vì nó
đã có thể sản xuất đường và bán trên các thị trường thế giới. Nền kinh tế của
các đảo này đã chỉ trì trệ khi đã có nhu cầu để chuyển sang các hoạt động kinh
tế khác, mà đã đe dọa cả các khoản thu nhập và quyền lực chính trị của elite
đồn điền.
Một thí dụ khác đã là tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa ở
Liên Xô từ Kế hoạch Năm Năm lần thứ nhất trong năm 1928 cho đến tận các năm
1970. Các thể chế chính trị và kinh tế đã mang tính khai thác cao độ, và các
thị trường đã bị hạn chế nặng nề. Tuy nhiên, Liên Xô đã có thể đạt sự tăng
trưởng kinh tế nhanh bởi vì nó đã có thể sử dụng quyền lực của nhà nước để
chuyển các nguồn lực từ nông nghiệp, nơi chúng đã được sử dụng rất kém hiệu
quả, sang công nghiệp.
Loại thứ hai của tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác
xuất hiện khi các thể chế cho phép sự phát triển của các thể chế kinh tế bao
gồm một chút, cho dù không hoàn toàn. Nhiều xã hội với các thể chế chính trị
khai thác sẽ lảng tránh các thể chế kinh tế bao gồm bởi vì sợ sự phá hủy sáng
tạo. Nhưng mức độ, mà elite tìm được cách để chiếm độc quyền quyền lực, thay
đổi qua các xã hội. Trong một vài xã hội, vị thế của elite đã có thể đủ an toàn
nên họ có thể cho phép một số bước hướng tới các thể chế kinh tế bao gồm khi họ
khá chắc chắn rằng việc này sẽ không đe dọa quyền lực chính trị của họ. Một
cách lựa chọn khả dĩ khác, tình thế lịch sử đã có thể đến nỗi ban cho một chế
độ chính trị khai thác các thể chế kinh tế khá bao gồm, mà họ quyết định không
chặn lại. Những cách này cung cấp cách thứ hai mà theo đó tăng trưởng kinh tế
có thể xảy ra dưới các thể chế chính trị khai thác.
Công nghiệp hóa nhanh chóng của Nam Hàn dưới thời Tướng Park
là một thí dụ. Park lên nắm quyền qua một cuộc đảo chính năm 1961, nhưng ông đã
làm vậy trong một xã hội được ủng hộ mạnh mẽ bởi Hoa Kỳ và với một nền kinh tế
nơi các thể chế kinh tế về thực chất đã là bao gồm. Mặc dù chế độ của Park là
độc đoán, nó đã cảm thấy đủ an toàn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và thực tế
đã làm vậy một cách rất tích cực – có lẽ một phần bởi vì chế độ đã không trực
tiếp được ủng hộ bởi các thể chế kinh tế khai thác. Khác với Liên Xô và hầu hết
các trường hợp khác của tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, Nam Hàn đã
chuyển đổi từ các thể chế chính trị khai thác theo hướng sang các thể chế chính
trị bao gồm trong các năm 1980. Sự chuyển đổi thành công này đã là do một sự
hợp lưu của các yếu tố.
Vào các năm 1970, các thể chế kinh tế ở Nam Hàn đã trở nên đủ bao
gồm đến mức chúng đã làm giảm một trong các lý do căn bản cho các thể chế chính
trị khai thác – elite kinh tế đã có ít để kiếm được từ sự thống trị chính trị
của chính họ hay của quân đội. Sự bình đẳng tương đối về thu nhập ở Nam Hàn
cũng đã có nghĩa rằng elite có ít để sợ chủ nghĩa đa nguyên và dân chủ. Ảnh
hưởng then chốt của Hoa Kỳ, đặc biệt căn cứ vào sự đe dọa từ Bắc Triều Tiên,
cũng đã có nghĩa rằng phong trào dân chủ mạnh, mà đã thách thức chế độ độc tài
quân sự, đã không thể bị đàn áp lâu. Mặc dù việc ám sát Tướng Park trong năm
1979 đã tiếp theo bởi một cuộc đảo chính quân sự khác, lãnh đạo bởi Chun
Doo-hwan, người kế vị được chọn của Chun, Roh Tae-woo, đã khởi xướng một quá
trình cải cách chính trị mà đã dẫn đến sự củng cố của một nền dân chủ đa nguyên
sau năm 1992. Tất nhiên, không có sự chuyển đổi nào thuộc loại này đã xảy ra ở
Liên Xô. Kết quả là, sự tăng trưởng Soviet đã hụt hơi kiệt sức, và nền kinh tế
đã bắt đầu suy sụp trong các năm 1980 và rồi tan vỡ hoàn toàn trong các năm
1990.
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc hiện nay cũng có nhiều điểm chung
với những kinh nghiệm của cả Liên Xô và Nam Hàn. Trong khi các giai đoạn ban
đầu của sự tăng trưởng Trung Quốc đã được dẫn đầu bởi những cải cách thị trường
triệt để trong khu vực nông nghiệp, các cuộc cải cách trong khu vực công nghiệp
đã im hơi lặng tiếng hơn. Ngay cả ngày nay, nhà nước và Đảng Cộng Sản đóng vai
trò trung tâm trong quyết định khu vực nào và các doanh nghiệp nào sẽ nhận được
thêm vốn và sẽ mở rộng – trong quá trình, kiếm được và đánh mất các khoản tiền
kếch xù. Như ở Liên Xô trong thời hoàng kim của nó, Trung Quốc đang phát triển
nhanh chóng, nhưng đấy vẫn là sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, dưới
sự kiểm soát của nhà nước, với ít dấu hiệu của một sự chuyển đổi sang các thể
chế chính trị bao gồm. Sự thực rằng các thể chế kinh tế của Trung Quốc vẫn còn
xa mới mang tính bao gồm đầy đủ cũng gợi ý rằng một sự chuyển đổi theo kiểu Nam
Hàn là ít có khả năng, mặc dù tất nhiên không phải là không thể.
Đáng lưu ý rằng sự tập trung hóa chính trị là chìa khóa cho cả hai
cách mà theo đó tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác có thể xảy ra.
Không có mức độ tập trung chính trị nào đó, thì elite đồn điền ở Barbados,
Cuba, Haiti, và Jamaica đã không thể giữ luật pháp và trật tự và bảo vệ các
tích sản và tài sản riêng của họ. Không có sự tập trung chính trị đáng kể và
một sự nắm chặt quyền lực chính trị, thì các elite quân sự Nam Hàn đã không, và
Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng đã chẳng cảm thấy đủ an toàn để nghĩ ra các cải
cách kinh tế quan trọng và vẫn tìm được cách để bám lấy quyền lực. Và không có
sự tập trung hóa như vậy, thì nhà nước ở Liên Xô hay ở Trung Quốc đã không thể
điều phối hoạt động kinh tế để hướng các nguồn lực vào các lĩnh vực có năng
suất cao. Một đường phân chia chính giữa các thể chế chính trị khai thác vì thế
là mức độ tập trung hóa chính trị của chúng. Các thể chế chính trị khai thác mà
không có sự tập trung hóa, ví dụ như nhiều ở châu Phi hạ-Sahara, sẽ thấy khó để
đạt ngay cả sự tăng trưởng hạn chế.
Cho dù các thể chế khai thác có thể tạo ra sự tăng trưởng nào đó,
chúng sẽ thường không tạo ra sự tăng trưởng kinh tế được giữ vững, và chắc chắn
không tạo ra loại tăng trưởng đi cùng với sự phá hủy sáng tạo. Khi cả các thể
chế chính trị và các thể chế kinh tế đều mang tính khai thác, các khuyến khích
sẽ không có ở đó cho sự phá hủy sáng tạo và thay đổi công nghệ. Trong một thời
gian nhà nước có thể có khả năng để tạo ra tăng trưởng nhanh bằng cách phân bổ
các nguồn lực và con người bằng sắc lệnh, nhưng quá trình này bị hạn chế một
cách cố hữu. Khi đạt các giới hạn, sự tăng trưởng ngừng lại, như đã xảy ra ở
Liên Xô trong các năm 1970. Ngay cả khi những người Soviet đã đạt sự tăng
trưởng kinh tế nhanh, đã có ít thay đổi công nghệ trong phần lớn nền kinh tế,
mặc dù bằng cách đổ các nguồn lực ồ ạt vào quân đội họ đã có khả năng phát
triển các công nghệ quân sự và thậm chí vượt trước Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua
không gian và hạt nhân trong một thời gian ngắn. Nhưng sự tăng trưởng này mà
không có sự phá hủy sáng tạo và không có sự đổi mới công nghệ trên diện rộng đã
là không bền vững và đi đến một sự kết thúc đột ngột.
Ngoài ra, những sắp xếp, mà ủng hộ tăng trưởng kinh tế dưới các
thể chế khai thác, do bản chất của chúng, là mong manh – chúng có thể sụp đổ
hay bị phá hủy một cách dễ dàng bởi sự đấu đá nội bộ mà bản thân các thể chế
khai thác gây ra. Trên thực tế, các thể chế chính trị và kinh tế khai thác tạo
ra một xu hướng chung cho sự đấu đá nội bộ, bởi vì chúng dẫn đến sự tập trung
của cải và quyền lực trong tay của một elite hẹp. Nếu một nhóm khác có thể lấn
át và có thủ đoạn hơn elite này và nắm lấy sự kiểm soát nhà nước, thì họ sẽ là
những người hưởng của cải và quyền lực này. Hệ quả là, như thảo luận của chúng
ta về sự sụp đổ của Đế chế La Mã muộn hơn và các thành phố Maya sẽ minh họa, sự
chiến đấu để kiểm soát nhà nước toàn năng là luôn luôn âm ỉ, và nó sẽ tăng
cường một cách định kỳ và dẫn đến sự hủy hoại của các chế độ này, khi nó biến
thành nội chiến và đôi khi thành sự tan vỡ và sụp đổ hoàn toàn của nhà nước.
Một ngụ ý của việc này là, cho dù một xã hội dưới các thể chế khai thác ban đầu
có thể đạt được mức độ tập trung nhà nước nào đó, nó sẽ không kéo dài. Trên
thực tế, việc đấu đá nội bộ để kiểm soát các thể chế khai thác thường dẫn đến
nội chiến và sự vô luật pháp tràn lan, coi một sự thiếu vắng dai dẳng của sự tập
trung nhà nước là thiêng liêng như ở nhiều quốc gia ở châu Phi hạ-Sahara và một
số quốc gia ở Mỹ Latin và Nam Á.
Cuối cùng, khi sự tăng trưởng đến dưới các thể chế chính trị khai
thác nhưng ở nơi các thể chế kinh tế có các khía cạnh bao gồm, như chúng đã là
ở Nam Hàn, luôn luôn có mối hiểm nguy rằng các thể chế kinh tế trở nên khai
thác hơn và sự tăng trưởng ngừng lại. Những người kiểm soát quyền lực chính trị
cuối cùng sẽ thấy có lợi hơn để sử dụng quyền lực của họ để hạn chế cạnh tranh,
để làm tăng phần của họ trong chiếc bánh, hay thậm chí để ăn cắp và cướp bóc từ
những người khác hơn là ủng hộ sự tiến bộ kinh tế. Sự phân bố và khả năng để sử
dụng quyền lực cuối cùng sẽ làm xói mòn chính nền tảng của sự thịnh vượng kinh
tế, trừ phi các thể chế chính trị được biến đổi từ khai thác thành bao gồm./.
4.NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét