thư mục

Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

Nhìn về Trung Quốc



Lời nói đầu:
Từ khi ông Đặng Tiểu Bình đảo ngược chủ thuyết kinh tế Cộng sản để mời gọi tư bản vào đầu tư năm 1989, nước Trung Hoa đã phát triển và trở thành nền kinh tế có tổng sản lượng quốc gia (GDP) đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Nhưng dù thất bại nặng nề trong việc áp dụng 40 năm chủ nghĩa Cộng sản tại Trung Hoa (1949 – 1979), Đảng Cộng sản còn ngự trị với bao nhiêu quyền hành, đặc quyền, đặc lợi. Chủ quyền quốc gia và quyền sống của người dân vẫn do Đảng Cộng sản nắm chặt không khác gì dưới thời Mao Trạch Đông. Người dân không thể hiện được quyền làn chủ đất nước và làm chủ cuộc sống của mình, có nghĩa vẫn bị đàn áp, vẫn bị nghèo khổ vì nông dân thì bị cướp đoạt ruộng đất, công nhân thì bị bóc lột công sức, cùng với nạn tham ô, cường hào ác bá trải rộng khắp nước từ Trung ương tới địa phương.
Đã có những đòi hỏi hay kiến nghị cải cách chế độ nhưng đều bị đàn áp, bác bỏ. Cách nay hơn một năm, Trung tướng Lưu Á Châu, giáo sư Viện Đại học Quân sự, con rể cựu Thủ Tướng Lý Tiên Niệm đã cảnh cáo nếu chế độ không được thay đổi thì chỉ trong vòng 10 năm nữa sẽ sụp đổ.
Có thể ông đã tiên đoán sai về thời gian, vì những tháng gần đây giai cấp công, nông nổi lên liên tiếp, không phải chỉ vài chục, vài trăm người mà hàng chục ngàn người ở cảng Đại Liên ngày 14-8-2011; không phải chỉ đòi hỏi quyền lợi hay khiếu nại mà còn giương cao biểu ngữ đòi “Giết chết bọn quan chức tham ô”, “Đả đảo chế độ độc tài”, “Nợ máu phải trả bằng máu” (Huyết trái, huyết hoàn), lật đổ chính quyền cũ, lập chính quyền mới ở xã Ô Khảm, tỉnh Quảng Đông mới đây. Những tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản như Nhật báo Nhân Dân, Thời báo Hoàn Cầu (Global Times) không còn có thể im tiếng nữa mà thảng thốt la lên: “Tín nhiệm dành cho giới lãnh đạo Đảng bị lật nhào” (Global Times 25-9-2011), “Dân chúng càng ngày càng bất mãn với chính phủ” (Nhật báo Nhân Dân 03-11-2011). Nhiều học giả và các giáo sư Đại học chuyên nghiên cứu về Trung Quốc tiên đoán có thể nước này sẽ gặp đại loạn trong thời gian sắp tới.
Để có một cái nhìn tổng quát hơn về những diễn biến có thể sẽ xẩy ra, chúng ta cùng lướt qua về bối cảnh xa xưa của đất nước có 1.300 triệu dân với nền văn hóa lâu đời này, tiếp đến là nói về Mao Trạch Đông và nội tình Trung Quốc hiện nay.

 I – Trung Quốc ngày xưa: Khổng Tử

Dân tộc Trung Hoa khởi đầu sinh sống ở phía Tây Bắc Hoàng Hà rồi dần bành trướng về phía Đông xuống phần hạ lưu và phía Nam con sông này. Đầu óc phong kiến đã sớm phát triển rất mạnh trong con người Trung Hoa. Vì thế mà nạn tranh giành quyền lực liên tục xẩy ra làm cho người dân vô cùng lầm than vì bị các lãnh chúa đè nén, bóc lột qua sưu cao, thuế nặng và nhân lực để phục vụ chiến tranh do họ gây ra. Đất nước Trung Hoa có những giai đoạn suy tàn vì chiến tranh nên bị các nước nhỏ xung quanh như Kim, Mông, Mãn… xâm chiếm và đô hộ. Vào đầu đời nhà Chu – Tây Chu (1.135-770 trước Tây lịch), chư hầu có tới 3.000 nước. Những đám phong kiến này luôn tranh chiếm tiêu diệt lẫn nhau và vào thời Đông Chu còn khoảng vài trăm nước. Thời Chiến quốc còn lại thất hùng gồm Tề, Hàn, Ngụy, Triệu, Tần, Sở, Yên. Nước nào cũng nhân danh nhà Chu (như thời Trịnh, Nguyễn của Việt Nam nhân danh nhà Lê) để gây chiến với nước khác. Cuối cùng thì Tần, với Tần Thủy Hoàng, toàn thắng vào năm 221 (trước Tây lịch) lập ra nhà Tần. Đây là lần đầu tiên Trung Hoa được thống nhất sau hàng ngàn năm chinh chiến, nhưng nhà Tần chỉ kéo dài được 15 năm. Hạng Võ diệt được Tần thì lại có cuộc tranh hùng với Lưu Bang. Lưu Bang thắng Hạng Võ lập ra nhà Hán tương đối ổn định được hơn 300 năm thì xảy ra loạn Hoàng Cân, tức giặc Khăn Vàng, đưa nước Tàu đến loạn Tam quốc (Ngụy, Thục, Ngô) với ba nhân vật nổi tiếng là Tào Tháo, Khổng Minh, Ngô Quyền quyết sống chết với nhau hơn 40 mươi năm trời. Tư Mã Ý từ Ngụy diệt được Thục, Ngô lập ra nhà Tấn (năm 265 sau Tây lịch) cũng chỉ ổn định được hơn 50 năm lại xảy ra loạn Ngũ Hồ gồm 16 nước chiến tranh liên miên và với những cuộc thay bậc đổi ngôi trong khoảng 300 năm cho đến năm 618 (sau Tây lịch) Lý Uyên chiến ngôi nhà Tùy lập ra nhà Đường….
Đầu óc phong kiến, đã có từ mấy ngàn năm, ăn sâu vào xương tủy người Trung Hoa nên luôn luôn xảy ra chiến tranh giữa những lãnh chúa khi họ nắm quyền trong tay. Thời cận đại và hiện nay, dù thế giới đã tiến tới thời đại dân chủ, đầu óc phong kiến của người Trung Hoa hình như lại càng tăng chứ không giản. Mao Trạch Đông và chế độ cộng sản sẽ được nói đến sau. Cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 mệnh danh là cách mạng dân chủ lập ra Trung Hoa Dân Quốc và tôn Tôn Dật Tiên lên hàng quốc phụ, thực chất chỉ là lập ra một chế độ phong kiến mới. Quốc Dân Đảng chưa làm chủ hoàn toàn đã chia làm hai: phe Vũ Hán ủng hộ Lê Nguyên Hồng; phe Nam Kinh, Thượng Hải ủng hộ Tôn Dật Tiên; chưa hết, tiếp theo là cuộc tranh quyền giữa Quốc Dân Đảng và Viên Thế Khải, một người có mộng lên ngôi hoàng đế Trung Hoa!
Đầu óc phong kiến của Tôn Dật Tiên cũng không kém! Khi làm Tổng thống lâm thời ông đã bổ quá nhiều người tỉnh Quảng Đông vào chính phủ. Gia đình bên vợ ông lũng đoạn nền kinh tế quốc gia, sáu người con trong gia đình Tống Giáo Nhân người nào cũng là triệu phú Mỹ kim thời ấy (bây giờ là tỷ phú). Tiêu biểu là Tống Tử Văn từng là Tổng thủ quỹ Hỏa Xa, Bộ trưởng Tài chánh, Bộ trưởng Ngoại giao…; Tưởng Giới Thạch, em rể, người kế vị ông là một người có đời sống xa hoa. Khi Tưởng Giới Thạch của Quốc Dân Đảng bị Mao đánh bại phải chạy qua Đài Loan năm 1949 thì đầu óc phong kiến của Tưởng nổi bật không thế chối cãi: Tưởng Giới Thạch làm Tổng thống suốt đời trên đảo quốc này và trước khi nhắm mắt truyền ngôi cho con trai là Tưởng Kinh Quốc. Chỉ sau khi Tưởng Kinh Quốc chết, Đài Loan mới mang màu sắc dân chủ, chứ chưa thực sự là dân chủ, vì cứ Tổng thống sau tìm cách bỏ tù Tổng thống trước. Năm 2009, cựu Tổng thống Trần Thủy Biển bị kết án 17 năm tù vì tham nhũng, rửa tiền và gian lận; ngày 30-6-2011 đến lượt cựu Tổng thống Lý Đăng Huy bị truy tố và kết án tù vì biển thủ hơn 5 tỷ euro (hơn 7 tỷ USD). Ông trước ông sau, dù ai phải ai trái, cũng biểu lộ đầu óc phong kiến hoặc là coi quốc gia thuộc quyền sở hữu của mình nên tha hồ vơ vét, hoặc là một hình thức thanh toán nhau để tranh giành quyền lực!
Nhìn xa hơn sang hòn đảo nhỏ bé xa xôi Singapore, nơi đây so với Đại Lục chẳng đáng gì về dân số, chỉ có một nhúm người Trung Hoa sinh sống (khoảng 3,5 triệu năm 2007) và bị Anh đô hộ 150 năm. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính, tất nhiên phải chịu ảnh hưởng văn hóa Tây phương, nhất là giới có học thức, nhưng đầu óc phong kiến vẫn tồn tại trong tiềm thức của họ, chờ có dịp là trỗi dậy.
Singapore độc lập năm 1965, lãnh tụ là Lý Quang Diệu tốt nghiệp Đại học Cambridge tại nước Anh lên làm Thủ Tướng từ đó đến 1990 (25 năm). Trong thời gian này, những lãnh tụ đối lập bị Lý dùng tòa án đàn áp đến thân tàn ma dại: bản thân đi tù, toàn bộ tài sản bị tịch thu để bồi thường danh dự cho ông ta vì tội công kích Lý khi tranh cử hoặc có những lời tố cáo chế độ. Hoa Lục hiện áp dụng triệt để phương sách này đối với nghệ sĩ Ngải Vị Vị và những người hoạt động đấu tranh cho dân chủ. Năm 1990 Ngô Tác Đống (Goh Chok Tong) lên thay, làm chỗ đệm cho dòng họ Lý. Năm 2004 “Thái tử” Lý Hiển Long chính thức lên ngôi nối nghiệp cha cho đến nay là 8 năm. Lý Quang Diệu chỉ rời khỏi nội các của chính quyền Singapore ngày 14-5-201 sau khi cuộc Cách Mạng Hoa Lài hay Mùa Xuân Ả Rập đã lật đổ hai nhà độc tài lâu năm ở Tunisia và Ai Cập và những chế độ độc tài khác ở Lybia, Syria, Yemen… đang lung lay. Trên thực tế, Lý Quang Diệu cai trị Singapore 46 năm (1965-2011), hết làm Thủ tướng thì làm Bộ trưởng Cao cấp trong nội các. Có thể nói chế độ Lý Quang Diệu là chế độ gia đình trị vì ông ta, vợ ông ta, 3 người em trai, 2 người con trai, 1 con gái đều nắm những chức vụ quan trọng trong chính quyền hay làm chủ những đại công ty ở Singapore! Như vậy dù đi đến đâu, đầu óc thống trị, phong kiến của người Trung Hoa cũng không thay đổi.
Những nhà Nho, với sự tán đồng của các vua chúa đã tôn Khổng Tử là đấng “Vạn thế sư biểu” (ông thầy vạn đời) vì có lợi cho cả hai: một đằng là con đường tiến thân đem lại quyền hành, danh lợi; một đằng dùng chủ thuyết của Khổng Tử mê hoặc dân chúng để thống trị muôn đời! Thực ra thuyết tôn quân có trước Khổng Tử hàng ngàn năm, từ thời Tây Chu đặc biệt với Chu Công Đán (Chu Công) là con thứ của Chu Văn Vương đã đúc kết kinh nghiệm trị nước các triều đại trước thành một học thuyết chính trị rất có lợi cho vua chúa (Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, trang 476). Khổng Tử chỉ là người san định, giải thích, bổ khuyết và sắp xếp thành hệ thống chặt chẽ thôi.
Bất cứ học thuyết chính trị hay chế độ độc tài nào, người ta cũng đều đề cao nhân nghĩa, đạo đức để che đậy những điều khắc nghiệt, tàn ác ẩn giấu bên trong. Thuyết Đại Đông Á của Nhật đề cao sự hùng mạnh, thịnh vượng cho các nước vùng Đông Nam Á để lối kéo những dân tộc Đông, Nam châu Á đang bị thực dân phương Tây đô hộ hồi đầu thế kỷ 20; thuyết dân tộc chủ nghĩa của Hitler đề cao huyết tộc Đức…. Khổng Tử đề cao cái Đức lớn của vua chúa, lấy Đức trị dân, lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà hành xử trong thiên hạ tạo nên “tứ hải giai huynh đệ”, nghĩa là muôn dân trên thế giới nhờ cái đức lớn của thiên tử trở thành anh em “bốn bể một nhà” thân ái!
Cạo bỏ lớp sơn hào nhoáng bên ngoài đó,trên thực tế con người dưới học thuyết Khổng Tử – trừ vua chúa và quan lại – đều là tôi mọi và nô lệ vì ông vua là con trời (Thiên tử) có toàn quyền cai trị muôn dân. Vua bảo chết phải chết, không chết là bất trung (quân sử thần tử, thần bất tử bất trung); những hình phạt như xẻo thịt (lăng trì), tứ mã phanh thây, voi giày, vứt vào vạc dầu sôi, tru di tam tộc… dành cho tội khi quân hay nổi loạn chống vua! Những bậc quân tử, tức những người theo Nho học đỗ đạt ra làm quan là cha mẹ, dân là con cái (dân chi phụ mẫu). Họ thuộc giai cấp sĩ, giai cấp cao quý nhất, dân chúng còn lại tất cả đều là tiểu nhân. Theo lệnh Thiên tử, họ thống trị 3 giai cấp dưới trong xã hội Trung Hoa là nông, công, thương. Người dân, dưới mắt Khổng Tử là đám ti tiện, khó dạy, trộm cướp, bất nhân. Người quân tử không muốn ở chung với bọn chuyên làm tội ác đó. Khổng Tử ví người quân tử như gió, gió thổi tới đâu cỏ rạp tới đó (người quân tử như gió, kẻ tiểu nhân như cỏ). Người quân tử, theo Nho học, phải tu thân để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, nghĩa là làm một kẻ thống trị. Trong gia đình thì thống trị vợ con, trong quốc gia thì thống trị dân chúng, trên thế giới thì thống trị những dân tộc khác. Nên chúng ta không lạ gì nước Tàu không mấy khi được thống nhất dù là theo thuyết tôn quân vì đầu óc phong kiến nên người nào cũng muốn tề gia, trị quốc cả. Khi được thống nhất thì phần lớn lại do các bạo chúa như Tần Thủy Hoàng hay Mao Trạch Đông thực hiện bằng những biện pháp tàn ác, sắt máu. Đối với những nước khác, khi nước Tàu đã trở nên cường thịnh thì đem quân đi xâm lăng, đó là chủ thuyết “bình thiên hạ” của Khổng Tử.
Một hạng người nữa bị nhà nho miệt thị là phụ nữ. Phụ nữ bị xếp ngang hàng với bọn tiểu nhân: “Chỉ hạng đàn bà và tiểu nhân là khó dạy. Gần thì họ nhờn, xa thì họ oán. Luận Ngữ, Dương Hóa” (Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, trang 483). Các triều đại vua chúa thời Nho giáo coi người phụ nữ không có tư cách pháp nhân, họ bị giám sát chặt chẽ như một đứa trẻ con: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (ở nhà phục tùng cha, lấy chồng phục tùng chồng, chồng chết phục tùng con trai). Họ không có quyền về tài sản, tất cả tài sản họ kiếm được và con cái do họ sanh ra đều thuộc quyền người chồng. Kể cả bản thân họ người chồng có thể cho, bán, sang nhượng cho người khác khi cần. Chúng ta đang nói về tương quan giữa người chồng và người vợ Trung Hoa, riêng những người đàn bà bị mua về làm nàng hầu, thê thiếp thì bị xếp vào hàng súc vật.
Câu nói nổi tiếng nhất của Khổng Tử khi nói về phụ nữ: “Nữ nhân nan hóa” (đàn bà khó dạy). Văn hào Trung Hoa, Lỗ Tấn hỏi lại rằng Khổng Tử có nói câu đó với mẹ ông không? Theo Khổng Tử, phụ nữ chỉ là hạng người phục vụ cho đàn ông với tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh), phải lo trau chuốt để làm vừa lòng chồng. (Đàn bà ở nông thôn, những người nghèo khó (chiếm tới 98%, 99% phụ nữ Trung Hoa) đầu tắt mặt tối chưa đủ ăn lấy tiền đâu mua son phấn? Thì giờ đâu mà thêu thùa? Nên những lời dạy này của Khổng Tử chỉ áp dụng cho một số nhỏ phụ nữ thuộc giới vua chúa, quan quyền thôi). Cao điểm của học thuyết này là người đàn bà bị bó chân từ lúc 6,7 tuổi để hiến thân cho vua, chúa và những kẻ quyền thế khi đã khôn lớn! Nhân, Nghĩa, Đạo Đức… chỉ là chiêu bài cho một chủ thuyết bất nhân, chuyên thống trị con người.
Nhà văn Trung Hoa Cao Hành Kiện, đoạt giải Nobel văn chương năm 2.000, nhận xét: “Khổng giáo phát triển qua các triều đại, xây dựng lên hệ thống đạo đức trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Thế nên Khổng giáo là để phục vụ cho quyền lực, nó là một hệ thống được tận dụng để hậu thuẫn cho quyền lực. Nếu chúng ta vứt bỏ quyền lực này đi, Khổng giáo chẳng còn gì ngoài lý thuyết.” (Web site BBC ngày 8 tháng 1 năm 2010).
Nhận xét trên tưởng còn nhẹ.
Trong truyện ngắn Nhật ký người điên, văn hào Lỗ Tấn gọi nhà Nho là lũ ăn thịt người. Ông viết: “Ta mở sử ra tra – pho sử này không ghi năm tháng, trang nào cũng thấy vẹo vẹo, xiêu xiêu mấy chữ: nhân, nghĩa, đạo, đức. Ta không sao ngủ được, tỉ mỉ đọc đến nửa đêm, mới nhận thấy giữa các khe chữ, nhan nhản toàn thị hai chữ “ăn người”, và: “Đã có thể đổi con mà ăn được, thì gì cũng đổi được hết. Trước kia ta chỉ nghe ngài giảng đạo lý, thì ta cũng à uôm, ỡm ờ bỏ qua; bây giờ mới biết, ra lúc ngài giảng giải, chẳng những mép ngài nhờn mỡ người, mà lòng ngài cũng đầy ý muốn xơi người”! (Lỗ Tấn, Tuyển tập, Giản Chi dịch, Nhà xuất bản Tổng Hợp Hậu Giang 1987, trang 17, 18).
Tóm lại, mục đích chính của đạo Khổng là tạo ra một tầng lớp cai trị với đầu óc tự tôn, đặc quyền, đặc lợi và tạo ra mặc cảm thấp hèn cho những kẻ bị trị để làm tê liệt đầu óc chống đối của họ.

II – Trung Quốc ngày nay: Mao Trạch Đông (1883 – 1976)

Người dân Trung Hoa bị phong kiến gồm vua chúa kết hợp với giai tầng quan quyền của đạo Khổng trấn áp, thống trị về thể chất bằng quyền lực – chém giết tù tội, và về tinh thần bằng cách dùng Nho giáo để mê hoặc, ru ngủ trong khoảng hơn 2.000 năm. Bị thống trị như vậy, để sống còn người dân chỉ có cách vâng phục và tìm cách lo lót cho những người có quyền thế nên kẻ giàu càng ngày càng giàu thêm, kẻ nghèo càng ngày càng nghèo đi. Ở nông thôn, ngoài sự tuân phục, phục dịch quan quyền còn bị những kẻ có quyền thế ở địa phương bóc lột, chèn ép. Quan tha ma bắt, ruộng đất dần dần thu gom vào một số người giàu có hay thần thế. Những nông dân nghèo có vài ba sào ruộng bình thường đã không đủ ăn, khi ốm đau, bệnh tật, tang ma đành đem bán hoặc cấm cố cho nhà giàu. Tay không, vào ngày mùa đi làm thuê kiếm miếng ăn nhưng khi mùa màng hết, công việc không có, nhiều người xin đi làm cả ngày chỉ được trả công bằng một bữa ăn trưa!
Đó là thực trạng xã hội Trung Hoa thời tiền Cộng sản vào đầu thế kỷ 20. Sự chênh lệch giàu – nghèo và tệ nạn tham ô, hối lộ... làm thối rữa xã hội Trung Hoa, tạo môi trường rất thích hợp để chủ nghĩa Cộng sản nảy nở, lớn mạnh thay vì phát triển ở những xứ công nghệ Âu, Mỹ như Marx tiên đoán và hy vọng.
Mao Trạch Đông, con một nông dân làm nghề buôn heo, sinh ngày 26-12-1883 tại thôn Thiều Sơn, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam, nắm lấy cơ hội, đã cùng các đồng chí tuyên truyền chủ nghĩa Marx với những hứa hẹn lật đổ chế độ phong kiến áp bức bóc lột, diệt trừ cường hào ác bá ở nông thôn, tịch thu ruộng đất của địa chủ để chia cho nông dân, mọi người đều tự do, bình đẳng, bình quyền, giải phóng phụ nữ, nam - nữ bình quyền.... Chủ nghĩa Marx (sau này cải biến thành chủ nghĩa Mao tàn khốc hơn nhiều) như nguồn nước cứu tinh đổ vào cái xã hội đang khao khát tự do, khao khát có miếng ruộng cày vì bị bóc lột, đàn áp, miệt thị và nghèo đói triền miên. Nông dân Trung Hoa vào những năm 1920 chiếm đến 98, 99% và hầu hết ở nông thôn đã nhanh chóng ùa theo Cộng sản nên chỉ mấy năm sau khi Đảng Cộng sản được thành lập (1921), Mao phát động chiến tranh du kích, lấy nông thôn bao vây thành thị.
Sau hơn 20 năm lao vào máu lửa, năm 1949 Mao thắng Tưởng Giới Thạch làm chủ hoàn toàn Lục Địa, đồng thời cũng là một đại đế mới hoàn toàn thống trị Trung Hoa. Có thể nói kể từ ngày lập quốc chưa có một ông vua nào có quyền hành tuyệt đối như Mao. Thời nhà Chu thì chia quyền cho các chư hầu, sau khi nhà Tần thâu về một mối thì quyền của ông vua cũng chỉ đến phủ, huyện vì dưới phủ, huyện thì các viên chức xã ấp hầu như được địa phương chọn lựa để tự lo liệu, điều hành công việc địa phương. Khi Mao lên làm chủ thì mọi chức vụ từ lớn đến nhỏ, dù ở thôn xã, cũng làm theo mệnh lệnh của Đảng, do Đảng đề cử và phải tuyệt đối phục vụ Đảng. Từ nhà máy đến cái khung dệt vải, cái đục, cái tràng đều tập trung trong tay Đảng; ruộng đất, nương rẫy, ao hồ do Đảng quản lý; buôn gánh bán bưng bị dẹp, thương mại là độc quyền của các cửa hàng quốc doanh... Người dân với hai bàn tay trắng hoàn toàn lệ thuộc vào Đảng và Đảng sai đi cày, đi cuốc rồi ban đấu ngô, đấu gạo, manh quần, manh áo mới sống còn được.
Một vị hoàng đế của các hoàng đế, đấng cứu tinh của giai cấp bần cố nông và thợ thuyền. Cán bộ Đảng là những người ưu tú, sớm giác ngộ chủ nghĩa Cộng sản, thay thế các bậc quân tử của Nho giáo theo lệnh Đảng cai trị dân! Cả một guồng máy tuyên truyền vĩ đại tôn Mao lên hàng thần thánh, đạo đức cao cả, thánh thiện, trong sạch, chí công vô tư, quên mình, xả thân phục vụ giai cấp vô sản và đất nước. Trẻ con từ 4, 5 tuổi đã được tuyên truyền, nhồi sọ về công ơn cao cả, đời sống đạo đức và sự hy sinh không bờ bến của Mao, đồng thời được dạy căm thù địa chủ, cường hào, đế quốc, tư bản....
Chủ nghĩa Mao – cải biến từ chủ nghĩa Marx – là chủ nghĩa phải đem dạy từ mẫu giáo cho đến đại học! Mao tuyển là sách gối đầu giường bắt buộc của toàn Trung Hoa. Mỗi nhà phải treo hình Mao; mọi người, mỗi buổi sáng khi đi làm ra trước ảnh Mao cúi đầu lạy, chiều về tới trước ảnh Mao cúi đầu lạy và đọc lời ăn năn sám hối những lỗi lầm trong ngày!
Mao ngự trị trong khu hoàng thành cũ ở Bắc Kinh, ba vòng đai an ninh ngày đêm canh gác và điều khiển quốc gia từ trong phòng ngủ. Trong cuốn Tư nhân bác sĩ hồi lục ký nói gọn là hồi ký, bác sĩ riêng của Mao là Lý Chí Thỏa kể lại rằng những lãnh tụ Trung Hoa như Mao Trạch Đông và Lâm Bưu là những người mắc bệnh thần kinh. Mao không bao giờ tắm, chỉ lau người và luôn luôn uống thuốc ngủ với liều lượng cao nhất, còn Lâm Bưu thì ghiền thuốc phiện nặng đến nỗi phải gửi sang Nga Xô cai nghiện. Lâm sợ gió, sợ ánh sáng và sợ nước. Cũng theo BS Lý Chí Thỏa, người luôn ở bên cạnh Mao cho đến lúc Mao chết, thì Mao là một kẻ vô luân và hoang dâm vô độ! Cùng một lúc ăn ở với hai mẹ con người phục vụ và làm tình với cả những thanh niên đẹp trai hầu cận! Mao đi đâu cũng có một đoàn các cháu gái trẻ, đẹp theo sau. Trên xe lửa có đoàn ca vũ của xe lửa theo hầu. Đến các tỉnh, các thành phố thì bí thư đảng ủy địa phương lo công việc đó. Ở Bắc Kinh, phòng ngủ của Mao là Liên Xuân Phòng và phòng 118 được bố trí sát phòng khiêu vũ để sau khi ăn uống no say là dạ vũ với các nữ vũ công, ca sĩ 18, 20 xinh đẹp được giữ lại tại phòng ngủ của Mao suốt đêm (Giang Thanh, người vợ thứ 3 sống riêng biệt ở nơi khác).
Trong khi bên ngoài nhân dân chết đói hàng chục triệu người do sai lầm trong Hợp tác hóa, Đại nhảy vọt hay bị hành hạ, chém giết bởi Vệ Binh Đỏ thì tại Đại sảnh đường Nhân dân, Mao và các lãnh tụ cao cấp của Đảng vui chơi, tiệc tùng, khiêu vũ thâu đêm!
Cựu Đại tá Tân Tử Lăng, với cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, mô tả Mao như một thứ ma đầu, thủ đoạn, nham hiểm, độc đoán, tàn bạo. Khi cần lôi cuốn người dân nghèo, Đảng Cộng sản và Mao tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân nhưng khi đã hoàn toàn nắm chặt quyền trong tay, Mao và Đảng Cộng sản bắt mọi người đem ruộng đất vào hợp tác xã, người dân lại hai bàn tay trắng đi làm công cho ông chủ mới duy nhất dưới sự phân công, giám sát, theo dõi từng cử chỉ, lời nói của các đảng viên Cộng sản. Sự áp bức, bóc lột và nạn tham nhũng lại diễn ra còn gay gắt hơn dưới chế độ phong kiến mà người dân phải cam chịu vì bây giờ chỉ có mỗi một ông chủ, không như ngày xưa không thích chủ này thì làm mướn cho chủ khác.
Nông dân, thợ thuyền bất mãn phản ứng tiêu cực, không tận tâm làm việc nên kinh tế bị suy bại. Cựu Đại tá Tân tử Lăng viết: “Chỉ thấy cảnh nghèo nàn, bệnh phù thũng và đầy rẫy người chết đói”! Tại hội nghị Lư Sơn năm 1959, Nguyên soái Bành Đức Hoài, Bộ trưởng Quốc phòng, thẳng thắn phê bình và cãi nhau tay đôi với Mao về thực trạng của kế hoạch hợp tác hóa nên bị cách chức. Tướng Hoàng Khắc Thành, Tổng tham mưu trưởng cùng chung số phận.
Trước hoàn cảnh thê thảm đó, thay vì phải đình chỉ để sửa chữa hay hủy bỏ kế hoạch, Mao với quyền hành tuyệt đối của lãnh tụ Đảng ra lệnh thực hiện Đại nhảy vọt và thành lập Công xã Nhân dân trên toàn quốc vào tháng 9-1959 với tham vọng Trung Quốc vượt nước Anh về sản lượng thép trong 15 năm, đốt giai đoạn vượt Nga Xô để từ một xã hội nông nghiệp thô sơ tiến thẳng lên xã hội cộng sản, không cần qua giai đoạn tư bản. Mao ra lệnh cho nông dân trồng lúa, bắp, kê... dày ken nhau để nâng cao năng suất, nhà nhà lập lò luyện thép sau hè, chỉ tính riêng tỉnh Hồ Nam có tới 50.000 lò luyện thép! Thép từ những lò luyện do các nông dân phụ trách chảy ra là một đống sắt nhão tạp vô dụng; lúa, bắp trồng dày quá không đủ không khí nên nông dân phải thay phiên nhau ra đồng ngày đêm quạt thông gió mới không bị chết, nhưng ra hạt là những hạt lép!
Mùa xuân năm 1960 nạn đói lan tràn, có làng 80 ngày không có miếng ăn, huyện Tín Dương, Hà Nam hơn 1 triệu dân chết đói! Từ 1959 đến 1962 số dân chết đói toàn quốc là 5,11% của khoảng 600 triệu dân. Tỉnh An Huy nặng nhất: 18,37%, Tứ Xuyên: 13,07%, Hồ Nam quê hương Mao: 6,81%.... Trong Đại nhảy vọt này có 37,5 triệu người chết đói! Ở tỉnh Tứ Xuyên ban ngày chôn người chết, tối đào lên xẻo thịt nấu ăn, ở huyện Sùng Khánh người ta còn giết cả trẻ con lấy thịt ăn! Đội sản xuất số 1 huyện Sùng Khánh có 83% hộ ăn thịt người!
Khi nhận được báo cáo, Mao đổ lỗi cho bọn địa chủ, phú nông lọt lưới, bọn hữu khuynh trong Đảng phá hoại và nham hiểm lên kế hoạch loại trừ mọi nguy cơ chống đối. Mao bí mật giao cho Giang Thanh thi hành âm mưu. Những kẻ có nguy cơ tiêu diệt Mao là những đồng chí cũ đang được Mao cho chia sẻ quyền hành trong Bộ Chính trị, trong Chính phủ, các tướng lãnh, các ủy viên Trung ương Đảng đang nắm quyền hành tại các tỉnh và những người dân trưởng thành trước khi Mao cầm quyền có thể so sánh chế độ trước và chế độ của Mao, nhất là những thành phần có học, con cái địa chủ và trung nông thoát khỏi đợt tàn sát hồi cải cách ruộng đất có thể phụ họa chống đối.
Những thành phần đáng tin cậy của Mao là thanh, thiếu niên từ 13, 14 tuổi trở lên hoàn toàn được giáo dục, nhồi nhét lòng hận thù địa chủ, phản động, hữu khuynh... cũng như nhồi nhét rằng Mao là lãnh tụ vĩ đại, đấng cứu tinh của giai cấp, của nhân dân, được sử dụng làm nòng cốt trong chiến dịch này.
Ngày 02-8-1966 Mao đích thân ra lệnh cho hơn 1 triệu Vệ binh đỏ tụ tâp ở Bắc Kinh tấn cống các trụ sở, trường học, bệnh viện, chùa chiền. Tượng Phật, lăng mộ của Khổng Tử, Khổng Minh, Hạng Võ, Viêm Đế, Thành Cát Tư Hãn... bị đập phá. Từ 18/8 đến 26/11/1966 có 13 triệu Vệ binh đỏ từ các nơi kéo về Bắc Kinh biểu dương lực lượng ủng hộ Mao. Lưu Thiếu Kỳ, Chủ tịch nước, Đặng Tiểu Bình, Tổng Bí thư Đảng và hai bà vợ của hai người này bị Vệ binh đỏ lôi ra đấu tố, đánh đập trước công chúng. Riêng Lưu Thiếu Kỳ bị đánh đập dã man chỉ còn 7 cái răng và bị nhốt trong Phủ Chủ tịch, bị đày đọa cho đến chết. Các Nguyên soái Bành Đức Hoài, Chu Đức, Hạ Long... chịu cùng tình cảnh tương tự. Riêng trong hạ tuần tháng 8-1966 tại Bắc Kinh có hàng ngàn người bị lôi ra đập chết tươi. Vệ binh đỏ tung hoành khắp nước, hạ bệ, đánh đập, giết chóc bí thư, chủ tịch ở các tỉnh địa phương mà hầu hết họ là những người đã từng vào sinh ra tử với Mao trong cuộc nội chiến chống Tưởng Giới Thạch để chiếm quyền. Những viên chức bị tố cáo là hữu khuynh, những phú nông, địa chủ và con cái địa chủ thoát chết trong cải cách ruộng đất bị hành quyết hay đập chết cả nhà. Tất cả những kẻ đó đều là kẻ thù của Mao Chủ tịch!
Máu lửa và cuồng loạn tràn ngập Trung Quốc. Hàng chục triệu người bị tàn sát hay bị hành hạ, hơn 10 triệu nhà bị lục soát! Chỉ riêng huyện Đạo tỉnh Hồ Nam trong 66 ngày (13/8 đến 17/10/1966) có 4.519 nạn nhân của Vệ binh đỏ gồm 4.193 người bị giết và 326 người bị buộc phải tự sát! Dân chúng hoảng loạn, nhiều nơi ăn thịt những người bị Vệ binh đỏ giết chết để chứng tỏ lòng trung thành với Mao. Ở tỉnh Vân Nam mỗi khi “ kẻ thù của Mao Chủ tịch” bị đập chết, người ta đem dao moi gan, xẻo thịt về nấu ăn.
Dưới quyền ngự trị của Mao, dân tộc Trung Hoa hai lần phải ăn thịt người!
Thần, Phật, tổ tiên đã bị đạp đổ hết, bây giờ Mao ngự trị Trung Quốc như một vị thượng đế nhưng thân phận người dân Trung Quốc thì không có gì thay đổi, càng ngày càng tiến đến cảnh tận cùng của nghèo khổ, đói rách cho đến khi Mao xuôi tay, nhắm mắt!
Sau này hồi tưởng lại, cựu Vệ binh đỏ Trần Hướng Dương viết: “Vì từ nhỏ đã được giáo dục hận thù: thù địa chủ, tư bản, Quốc Dân Đảng. Sự cuồng loạn ấy chẳng những hiện nay không mấy ai tin mà ngay bản thân chúng tôi nhớ lại cũng không dám tin nữa. Những việc làm xấu xa của Hồng Vệ Binh thật đáng nguyền rủa. Nhưng chúng tôi cũng có đủ tư cách để lớn tiếng hỏi lại: Ai đã giáo dục chúng tôi thành những thằng điên?” (Tân Tử Lăng, Mao Trạch Đông ngàn năm công tội).
Với những lời ghi trên, thiết nghĩ phải đưa những kẻ đầu độc trí óc dân chúng ra xét xử trước Tòa án Quốc tế về tội ác chống nhân loại.

III - Trung Quốc đi về đâu?

Như phần trên chúng tôi đã nói truyền thống Trung Quốc là đầu óc phong kiến, thống trị! Những kẻ độc tài đeo mặt nạ dân chủ như Mao Trạch Đông, Tưởng Giới Thạch, Lý Quang Diệu... cũng như bất cứ những kẻ độc tài nào từ xưa tới nay, họ không bao giờ quên củng cố quyền lực và bằng mọi cách bảo vệ quyền lợi bản thân, gia đình, phe, đảng.
Sau cái chết của Mao là cuộc đấu tranh quyền lực giữa hai phe: phe Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Hoa Quốc Phong... và bọn “Bọn bốn tên” (Tứ nhân bang”) do Giang Thanh, vợ thứ ba của Mao, cầm đầu. Khi “Bọn bốn tên” bị diệt thì Đặng Tiểu Bình trở thành lãnh tụ tối cao với chủ trương thực tiễn “mèo trắng, mèo đen mèo nào bắt chuột hay cũng tốt” để cứu Đảng Cộng sản và xã hội Trung Quốc đang bên bờ vực thẳm.
Đó là tính thế bắt buộc, không còn con đường nào khác vì Đặng đã từng nói trong dịp đi tuần thú phương nam (Nam tuần giảng thoại) năm 1992: “Không cải cách Trung Quốc chỉ có nước chết mà thôi.”!
Sau khi thanh toán xong bọn “Bọn bốn tên”, năm 1979 Đặng Tiểu Bình tung ra kế hoạch “Bốn hiện đại hóa” với chủ thuyết “Chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc”, có nghĩa là Đảng Cộng sản tiếp tục cầm quyền, chỉ thay đổi kinh tế, còn quyền hành và chủ quyền quốc gia cũng như quyền sống người dân vẫn nằm trong tay Đảng Cộng sản. Cuộc đổi mới này thực chất là chủ thuyết của Marx về kinh tế được thay thế bằng chủ nghĩa Tư bản phương Tây. Mấy tiếng “Chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc” dùng để lừa bịp dân chúng, đồng thời giúp cho những người Cộng sản khỏi ngượng mặt khi vẫn nắm chặt quyền hành.
Cánh cửa đóng kín trước đây giờ được mở ra để mời gọi tư bản khắp bốn phương tới đầu tư với tất cả mọi ưu đãi và dễ dãi!
Tư bản từ châu Âu, châu Mỹ, châu Úc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore... đổ vào khai thác công nhân rẻ mạt và một thị trường tiêu thụ khổng lồ 1,3 tỷ người. Hàng trăm, rồi hàng ngàn tỷ Mỹ kim từ nước ngoài đổ vào mỗi năm thông qua giấy phép và sự sắp xếp, thỏa hiệp với những người Cộng sản cầm quyền.
Từ năm 1979 đến nay, hơn 30 năm, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở thành cường quốc thứ hai về kinh tế năm 2010, đứng sau Hoa Kỳ. Tuy nhiên chính quyền hiện nay giữ nguyên chế độ độc tài đảng trị mang truyền thống phong kiến đã không theo kịp với những thay đổi kinh tế và xã hội.
Vì vậy, hiện nay Đảng Cộng sản Trung Quốc đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn:
- Xã hội tan rã vì không có đạo đức: Đạo đức là căn bản của con người và xã hội. Đạo đức giữ cho con người không tàn ác, giết người, tham lam, lường gạt, thù hằn, hoang dâm, lười biếng...; đạo đức dạy con người sống ngay thẳng, thực thà, thương yêu, tha thứ, đoàn kết, giúp đỡ, che chở lẫn nhau.... Đó là chất keo gắn kết nền tảng của xã hội. Không có đạo đức thì những người có quyền thế sẽ trở nên tham lam, tàn ác, lạm quyền, tìm mọi cách bóc lột người dân để thỏa lòng dục; dân chúng thì chỉ biết nghĩ đến cái lợi cho bản thân, gia đình, gian dối, lừa gạt, trộm cướp, thù hằn, tranh giành đâm chém nhau.
Chủ nghĩa Cộng sản không xây dựng xã hội đặt nên tảng trên đạo đức, trái lại chủ trương dùng căm thù để đấu tranh: con thù cha, vợ thù chồng, anh em thù nhau, xóm làng đấu tố, đánh đập, giết hại nhau (rõ nhất trong đấu tố cải cách ruộng đất). Chính quyền không cai trị dân bằng chính đạo mà bằng tà đạo: thủ đoạn, dối trá, tàn bạo. Từ những lãnh tụ lớn như Staline, Mao Trạch Đông giết hàng chục triệu người (Staline: 21,5 triệu, Mao: 78 triệu) đến các lãnh tụ nho nhỏ như Pol Pot, Ieng Sary, Khiêu Samphan cũng giết tới hai triệu trong số bảy triệu dân Khmer chỉ trong vài năm cầm quyền. Ở Nga cũng như ở Trung Quốc, cả một bộ máy tuyên truyền vĩ đại tung hô những kẻ sát nhân và hoang dâm, vô luân như Mao, Staline là thần thánh để lường gạt dân chúng. Nếu vẫn còn chế độ Khmer đỏ ở Campuchia không bị sụp đổ thì Pol Pot, Khiêu Samphan, Iang Sary... cũng sẽ được bộ máy tuyên truyền tôn là thần thánh và có cả lăng tẩm như Staline, Mao Trạch Đông sau khi chết.
Thiết chế Mao ngự trị của cho đến bây giờ kéo dài đã hơn 60 năm, con người và xã hội Trung Quốc bị phá sản về đạo đức.
Mới đây cả thế giới xúc động khi hay tin bé Vương Duyệt Duyệt, hai tuổi, đang thơ thẩn chơi trong khu chợ ở Quảng Đông bị một chiếc xe tải cán qua người bỏ đi, chiếc xe thứ hai thản nhiên cán tiếp và rồi người thứ nhất, người thứ hai... cho đến người thứ 18 vẫn thản nhiên bước qua không ai ngừng lại giúp đỡ em. Kết quả là dù sau đó được chở tới bệnh viện nhưng không cứu em sống được vì đã quá trễ.
Để kiếm nhiều lời, xí nghiệp của nhà nước cũng như tư nhân bỏ cả chất độc vào thực phẩm đem bán cho người tiêu dùng. Tập đoàn sản xuất sữa Mông Ngưu của nhà nước năm 2008 bỏ mélanie vào sửa làm trẻ con uống chết 6 và bị bệnh thận lên tới 300 ngàn em, mới đây lại phát hiện trong sữa, trong dầu ăn có chất Aflatoxine là chất độc gây ung thư gan. Ngoài ra còn có dầu ăn tái chế hứng từ miệng cống các nhà hàng, nấm gây ung thư, thịt heo gây ung thư, đậu hũ giả, rượu giả.... Đầy dẫy những kẻ cầm quyền tham lam, tàn ác đã cướp đất của dân còn đánh đập, cho xe ủi đất cán chết khi người ta chống đối!
Quyền hành tập trung, của cải tập trung đưa đến cảnh kẻ no, người đói; kẻ đầy quyền hành, kẻ khốn khổ vì bị áp bức thì xã hội không ổn định được!
- Nạn con ông cháu cha: Hai vụ đụng xe của con hai ông Tướng cả nước Trung Hoa và thế giới đều biết. Lý Khải Minh 22 tuổi, say rượu lái xe đâm chết sinh viên Trần Hiến Phượng bị những người đi đường xúm lại bắt giữ đã thách thức: “Có giỏi cứ đi kiện đi, cha tao là Lý Cường đấy.” (Lý Cường là tướng Công an). Ít tháng sau, ngày 06-9-2011, Lý Thiên Dực 15 tuổi, không bằng lái, con trai Thiếu tướng Lý Song Giang lái chiếc xe hơi sang trọng của Đức BMW đụng một cặp nam nữ. Khi mọi người nói kêu cảnh sát, Lý Thiên Dực nhảy xuống tay đánh, miệng chửi: “Ai bảo chúng mày dám gọi cảnh sát?”.
Cái nạn con các ông lớn hoành hành như thế chỉ làm người ta tức giận nhưng nguyên nhân chính làm phân hóa xã hội Trung Hoa là con cái các ông lớn thì lại làm ông lớn, theo “truyền thống” “con vua thì lại làm vua”. Tập Cận Bình đang sửa soạn thay Hồ Cẩm Đào trong năm nay là con của Tập Cận Huân, nguyên Phó Thủ tướng và Phó Chủ tịch nước; Bạc Hy Lai từng là Bộ trưởng Thương mại, hiện là Bí thư thành phố Trùng Khánh, Ủy viên Bộ Chính trị, đang vận động vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị trong năm nay; Mao Tân Dư, cháu nội Mao Trạch Đông mới 40 tuổi đã được thăng cấp tướng... Cái lối cha truyền con nối đó được áp dụng trong các ngành, mọi cấp từ trung ương tới địa phương.
Theo sau chữ quyền chữ lợi, con cái những ông lớn còn dựa vào thế lực gia đình để làm giàu. Những người này được dân chúng Trung Hoa gọi là “phú nhị đại”, tức thế hệ thứ hai giàu có. Theo số liệu tại Trung Quốc thì 90% tỷ phú Mỹ kim là con cái giới lãnh đạo, họ được giữ những chức vụ quan trọng trong các công ty quốc doanh bổng lộc nhiều, được đặc quyền đặc lợi đầu tư, đấu thầu ở những ngành địa ốc, ngân hàng, xây dựng....
- Nạn cường hào: Hai chữ “cường hào” được người Cộng sản Trung Quốc triệt để khai thác để tuyên truyền lôi kéo nông dân chống lại những người giàu có, quyền thế đè nén dân chúng ở nông thôn thời trước. Nhưng hiện nay nạn cường hào ác bá xảy ra cả ở nông thôn lẫn thành thị làm người dân khốn đốn khi họ bị cướp nhà, cướp đất! Từ khi có “bốn hiện đại hóa”, đất đai trở nên đắt giá vì cần phải mở mang đô thị, lập các khu công nghiệp, các khu thương mại, các khu giải trí.... Đây là cơ hội để những kẻ có quyền hành tìm cách cướp đoạt đất của người dân.
Thông tấn xã AFP ngày 20-1-2010 đưa tin ông Zhang Weixing thuộc xã Xiashuixi tố cáo viên Chủ tịch xã tên Lishining chiếm 3,3 mẫu đất của ông ta để xây nhà trên đó. Khi bị phản kháng viên chức này thuê côn đồ đánh ông ta. Còn dân trong xã than rằng Lishning làm họ khốn khổ vì bị y chiếm đất, tống tiền và bắt nạt. Cách nay hơn 1 tháng (tháng 12-2011), 13.000 ngàn dân làng Ô Khảm thuộc thành phố Lục Phong, Quảng Đông, biểu tình đòi “nợ máu” vì bọn cường hào ở địa phương giết chết ông Tiết Kim Ba. Nạn nhân bị lột da ngực, đập dập các đầu ngón tay vì đã dám đứng lên chống lại việc chính quyền địa phương trưng thu đất để bán cho các công ty địa ốc. Dân làng Ô Khảm tố cáo họ chỉ được bồi thường với số tiền rẻ mạt là 5% so với giá thị trường. Mới đây, ngày 20-01-2012 dân làng Hoàng Cương gần đó cũng kéo nhau lên thành phố Quảng Châu biểu tình tố cáo Bí thư đảng Cộng sản xã nhận 63 triệu Mỹ kim đút lót để lấy đất của dân bán cho công ty địa ốc. Còn biết bao nhiêu người bị bọn cường hào ác bá hãm hại như ở Hà Nam ngày 03-01-2011 một phụ nữ có hai con nhỏ bị xe ủi đất đè chết và trước đó một tuần một thôn trưởng bị công an căng ra cho xe tải chạy qua cán chết, ba anh em nhà họ Bạch ở Vĩnh Niên, tỉnh Hà Bắc cùng tự thiêu ngày 03-11-2011 khi chính quyền tỉnh đem xe ủi đất và 300 côn đồ cộng với công an tới đánh đập dân làng để giải tỏa 400 mẫu đất.
Đây chỉ là một vài vụ tiêu biểu mà báo chí được biết. Có cả hàng trăm ngàn vụ, hàng trăm ngàn nạn nhân tức tưởi trong oan khuất không được ai biết đến từ bao nhiêu năm nay! Một cuộc điều tra của Đại học Nhân dân Bắc Kinh công bố trên báo 21st Century Business Herald xuất bản tại Bắc Kinh ngày 07-02-2012 đưa ra số liệu như sau:
- Từ năm 1990 đến nay có 584 triệu người dân Trung Hoa bị cướp đất, tương đương 43% dân số. - Hơn 130 triệu 612 người không được bồi thường hay bị chính quyền địa phương quỵt tiền bồi thường.
- Giá bồi thường rẻ mạt: Một mẫu Trung Hoa (667m2) bồi thường khoảng 3.000 đô la (18.739 nguyên) xong bán cho các công ty kinh doanh 123.000 đô la (778.000 nguyên) cao gấp hơn 40 lần. Tình trạng nông dân như vậy, số phận của công nhân cũng chẳng khá hơn.
- Nạn bóc lột công nhân: Tư bản ngoại quốc được chính quyền liên kết để cùng bóc lột công nhân. Người lao động phải làm việc trong những điều kiện khắc nghiệt nhiều khi 14, 15 giờ một ngày, không có ngày nghỉ cuối tuần; nghỉ bệnh, nghỉ sanh là bị sa thải. Năm 2010, đại công ty FoxConn của Đài Loan chuyên lắp ráp đồ điện tử cho các công ty Nhật, Mỹ về computer lập nhiều nhà máy ở Thành Đô và Thẩm Quyến với hơn một triệu công nhân bị nhốt trong doanh trại như các trại lính, ăn ở tại chỗ, mua sắm tại chỗ.... Họ bị làm việc căng thẳng có khi 7 ngày/tuần, bị các xếp chửi mắng, hạch xách, đe dọa trừng phạt, sa thải nên hàng loạt công nhân ở tuổi 20, 21 tự tử. Tình trạng này kéo dài làm chấn động thế giới với lòng thương cảm và phẫn nộ! Tuần báo New York Times số cuối tháng 01/2012 còn nhắc lại tình trạng khắc nghiệt này: “Môi trường làm việc tệ hại và những vấn đề nghiêm trọng về mặt an toàn, có nguy cơ tử vong”.
Đầu tháng 3 năm 2011, Tổ chức Lao động và Nhân quyền Toàn cầu tố cáo tệ nạn này tại nhà máy Vũ Uy ở Đông Quan chuyên sản xuất phụ tùng plastic cho hãng xe Ford của Mỹ, bắt công nhân làm việc 14 giờ/ngày, 7 ngày 1 tuần với lương 80 cents/giờ. Ai bảo vệ, bênh vực họ khi cán bộ công đoàn là những đảng viên Cộng sản đã liên kết với người ngoại quốc để được chia chác tiền bạc.
- Ô nhiễm môi trường sống: Một số người nhận xét vì đặt nặng vấn đề tăng trưởng nên chính quyền Trung Quốc lơ là với nạn ô nhiễm, điều đó chỉ đúng vài phần trăm. Nguyên nhân chính là nạn tham nhũng, cứ có tiền là trót lọt; ngược lại dù có đạt tiêu chuẩn môi trường cũng chẳng có giấy phép. Thứ đến là trình độ thấp kém không phải chỉ ở cấp huyện, xã, tỉnh, thành phố mà cả ở ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, v.v. Vụ xây đập thủy điện trên sông Dương Tử là một bằng chứng. Đến nay thì những nguồn nước ở phía dưới đập bị cạn kiệt và con đập bị đe dọa bởi biết bao nhiêu cây cối, đá, sỏi, đất từ thượng nguồn đổ về lấp dần đi. Trên thế giới có 20 thành phố ô nhiễm nhất thì Trung Quốc chiếm 13 và thủ đô Bắc Kinh đứng đầu!
Nguy hiểm nhất là những nhà máy đổ chất thải chứa chất độc ra sông rạch mà không được khử trước, những nhà máy gây ra bụi và khói độc cho những vùng dân cư ở xung quanh. Theo phóng viên báo Le Figaro tại Bắc Kinh, mỗi năm có khoảng 50 ngàn vụ dân chúng phản đối ô nhiễm. Chỉ nói mới đây, ngày 14-8-2011, 20 ngàn dân cư thành phố Đại Liên ồ ạt biểu tình chống nhà máy hóa chất gây ô nhiễm; ngày 18-9-2011 hàng ngàn người dân thành phố Hải Ninh, Chiết Giang bắt đầu 3 ngày biểu tình và đập phá văn phòng, lật xe cộ của công ty sản xuất pin mặt trời Jinco Solar vì gây ô nhiễm làm cá nuôi trong khu vực bị chết và 31 người chết vì ung thư; vụ mới đây nhất là ngày 15-01-2012 người ta thấy cá chết nổi lềnh bềnh trên sông mới phát giác nước sông Liễu (Liễu Giang) bị nhiễm độc 20 tấn cadmium do một hầm mỏ thải ra làm 3 triệu 700 ngàn dân thành phố Liễu Châu không có nước uống. Đây chỉ là những vụ tiêu biểu từ trước tới nay trong cái thảm trạng này.
- Nạn tham nhũng: Độc tài và tham nhũng là hai con quỷ song sinh, hiếm khi đơn lẻ và thằng em cuối cùng làm hại thằng anh. Cách nay mấy tháng, Raul Castro lãnh tụ Đảng Cộng sản Cuba tuyên bố “Tham nhũng còn nguy hiểm hơn cả bọn phản động”. Ngày 30-01-2012, đại hội bất thường Đảng Cộng sản Cuba dưới sự lãnh đạo của ông đã đi đến một số quyết định quan trọng, trong đó có vấn đề chống tham nhũng. Ở Trung Quốc, Thủ tướng Ôn Gia Bảo nhiều lần kêu gọi khẩn thiết chống tham nhũng và mới đây, ngày 10-01-2012, cơ quan Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản xác định: “Công cuộc chống tham nhũng cần phải đạt thêm nhiều kết quả hơn trước” để lập thành tích cho Đại hội lần thứ 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Nhưng càng chống thì càng tham! Từ một viên bí thư xã đến các bí thư tỉnh, huyện, Ủy viên Bộ Chính trị chóp bu chẳng nhiều thì ít tham nhũng. Tham nhũng không phải vài trăm, vài ngàn Mỹ kim mà hàng chục, hàng trăm triệu đô la! Hai ngày liên tiếp 20, 21 tháng 01/2012 hàng ngàn dân xã Hoàng Cương, Quảng Đông, biểu tình tố cáo viên bí thư xã nhận hối lộ 63 triệu đô la, tháng 3/2011 Bộ trưởng Giao thông bị điều tra vì tham nhũng 121 triệu đô la trong việc cấp giấy phép cho xe lửa cao tốc. Những Ủy viên Bộ Chính trị như Trần Hy Đồng (Bí thư Bắc Kinh), Trần Lương Vũ (Bí thư Thượng Hải) đều bị đưa ra tòa vì tham nhũng. Phó Chủ tịch tỉnh Sơn Đông Hoàng Thắng có tới 46 căn nhà cho 46 người tình. Không tham nhũng làm sao con cái của các tướng lãnh và cán bộ cao cấp lái xe Ferrari, Porche giá hàng trăm ngàn đô la và được gửi đi học ở nước ngoài?
Theo thống kê của cơ quan Kiểm toán Quốc gia Trung Quốc, năm 2009 có 106.000 viên chức bị kết tội tham ô liên quan đến 34,4 tỷ đô la bằng 1/3 Tổng sản lượng quốc nội/năm của Việt Nam. Theo điều tra của Cơ quan Tổng Thanh tra Đảng Cộng sản Trung Quốc công bố tháng 01-2011 thì tệ nạn này lan tràn trong tất cả bộ máy Đảng và nhà nước ở mọi ngành, mọi cấp (trường học, bệnh viện, cơ quan từ thiện Hồng Thập Tự, công an, quân đội, báo chí, xây dựng, nông nghiệp, lương thực, thuốc men...). Trong năm 2010, cơ quan này nhận được 1 triệu 400 ngàn đơn tố cáo và hồ sơ tham nhũng, có trên 500 ngàn cán bộ từ cấp huyện trở lên bị án tù, không thấy nói gì đến cấp xã là cấp chính quyền được trải rộng khắp nước và là nơi cường hào đỏ hoành hành nhiều nhất. Không biết số tiền các cán bộ tham ô là bao nhiêu trong năm 2010, nhưng theo báo cáo của cơ quan Thanh tra này công bố tháng 6/200 thì từ năm 1990 đến 2008 có 17.000 quan chức rời khỏi Trung Quốc đem theo 124 tỷ đô la, lớn hơn Tổng sản lượng quốc nội/năm của Việt Nam khoảng 24 tỷ. Số cán bộ tham nhũng và số tiền bất chính còn nằm trong nước chắc chắn phải cao hơn gấp nhiều lần.
Ngoài việc bóc lột dân, nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền bóc lột lẫn nhau cũng rất khốc liệt. Ở Suihua, một cán bộ trả 100 ngàn đô la cho ban tổ chức đảng để làm bí thư, một cán bộ khác trả 44 ngàn cho chức vụ nhỏ hơn nhưng hai năm sau kiếm được 740 ngàn. Trong quân đội, cột trụ của chế độ, nạn tham nhũng cũng không buông tha, chỉ cần khoảng 6.000 nhân dân tệ (# 1.000 đô la) có thể mua được cái lon trung sĩ. Theo Mc Gregor, tham nhũng của Đảng Cộng sản Trung Quốc là một loại thuế lan tỏa giữa giai cấp lãnh đạo.
Trên đây là những nguyên nhân gây ra bất công xã hội do những kẻ cầm quyền lợi dụng quyền thế thâm lạm, đục khoét tài nguyên quốc gia và bóc lột dân chúng qua tham ô, hối lộ cũng như cướp đất, cướp nhà của dân để làm giàu và đẩy người dân đến chỗ nghèo khó.
- Hố ngăn cách giàu nghèo: Tuy Trung Quốc đã vượt Nhật vào giữa năm 2010 trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới nhưng theo Tiến sĩ Trình Hiểu Nông từng là cố vấn của cố Thủ tướng Triệu Tử Dương thì hiện nay “nhiều người Trung Quốc hiện không đủ tiền mua thịt cá mà tiền mua rau cũng không có. Nhiều người phải đợi chợ gần tan để mua rẻ một ít rau trái cho có cái ăn qua ngày!”. Trong khi đó thì có những người giàu có tiệc tùng với rượu champagne đổ ra thùng uống không hết. Hầu hết họ thuộc giới cầm quyền lợi dụng chức vụ mà giàu có, thứ đến là con cái, thân thuộc của họ và sau cùng là những người liên kết, cộng tác làm ăn với họ để cùng chia chác.
Theo số liệu được những nhà nghiên cứu về Trung Quốc sưu tầm và tiết lộ trong năm 2011 thì:
- 70% tổng sản lượng quốc gia (4.115,02 tỷ đô la) do 0,2% dân số (#2,5 triệu) nắm giữ; dân số còn lại là 99,8% chia nhau 30% (Báo cáo tháng 7/2011 của cơ quan tư vấn Boston Consulting Group).
- Tổng sản lượng quốc nội năm 2010 là 5.878,6 tỷ đô la, nhưng tài sản trong các tập đoàn quốc doanh do các Hoàng Tử Đỏ nắm giữ chiếm 61,7% = 3.627,09 tỷ đô la.
Do đó có khoảng 900 triệu người dân Trung Hoa sống trong nghèo khó với lợi tức 2 hay 3 đô la/ngày, có những người chỉ có 1 hay 2 đô la. Những người này sống đói khát như người dân Phi Châu miền nam sa mạc Sahara! (Nguyễn Xuân Nghĩa, RFI ngày 22-2-2011).
Trong hoàn cảnh xã hội như thế, những người có lương tri không thể không lên tiếng và dân chúng dù chết cũng phải nói lên nỗi bất mãn của họ.
P. H. S.