7. ĐIỂM NGOẶT
RẮC RỐI VỚI
DỆT KIM
NĂM 1583 WILLIAM LEE đã trở về từ việc học tập của ông ở Đại học Cambridge để trở thành
linh mục địa phương ở Calverton, nước Anh. Gần đây Elizabeth I (1558-1603) đã ban hành một quyết
định rằng thần dân của bà phải luôn luôn đội một mũ được đan. Lee đã nghi chép,
“những người đan đã là các phương tiện duy nhất để làm ra đồ như vậy nhưng đã
mất quá lâu thời gian để hoàn thành mặt hàng. Tôi đã bắt đầu nghĩ. Tôi nhìn mẹ
và các chị em tôi ngồi trong ánh sáng chiều tà thoăn thoắt với những chiếc kim
đan của họ. Nếu đồ được đan bằng hai kim và một hàng sợi, tại sao lại không
dùng nhiều kim để đưa sợi”.
Ý nghĩ rất quan trọng này đã là khởi đầu của việc cơ giới hóa sản
xuất hàng dệt. Lee đã trở nên bị ám ảnh với việc làm ra một chiếc máy mà sẽ
giải phóng con người khỏi việc đan bằng tay không bao giờ ngớt. Ông nhớ lại,
“tôi đã bắt đầu sao lãng các nghĩa với Nhà thờ và gia đình. Ý tưởng về chiếc
máy của tôi và việc tạo ra nó đã chiếm hết tâm trí và trái tim tôi.”
Cuối cùng, vào năm 1589, “khung dệt kim” máy dệt kim của ông đã
xong. Ông đi London với sự hứng khởi xin một cuộc yết kiến với Elizabeth I để
giới thiệu với bà chiếc máy hữu ích đến thế nào và yêu cầu bà cấp cho một bằng
sáng chế mà sẽ ngăn những người khác sao chép thiết kế của ông. Ông đã thuê một
tòa nhà để dựng máy lên và, với sự giúp đỡ của đại biểu địa phương ở Quốc hội
Richard Parkyns, gặp Henry Carey, Chúa công Hudson, một thành viên của Hội đồng
Cơ mật của Nữ hoàng. Carey đã dàn xếp cho Nữ hoàng Elizabeth đến xem chiếc máy, nhưng phản ứng
của bà đã gây choáng váng. Bà đã từ chối cấp bằng sáng chế cho Lee, thay vào đó
lại nhận xét, “Cậu Lee, nhà ngươi nhắm cao. Nhà ngươi hãy cân nhắc sáng chế này
có thể làm gì đối với các thần dân đáng thương của ta. Nó sẽ chắc chắn làm cho
họ phá sản bằng cách cướp đi công ăn việc làm của họ, như thế biến họ thành
những kẻ ăn mày.” Bị đánh bại, Lee chuyển sang Pháp để thử vận may của mình ở
đó; khi đã thất bại ở đó, ông quay về nước Anh, nơi ông đã yêu cầu James I
(1603-1625), vua kế vị Elizabeth , cấp bằng sáng
chế, James I cũng đã từ chối, vì cùng lý do như Elizabeth . Cả hai đã sợ rằng việc cơ giới hóa
sản xuất dệt kim sẽ gây bất ổn về mặt chính trị. Nó sẽ ném người dân khỏi việc
làm, gây ra thất nghiệp và bất ổn chính trị, và đe dọa quyền lực hoàng gia. Máy
dệt kim đã là một đổi mới hứa hẹn sự tăng năng suất khổng lồ, nhưng nó cũng hứa
hẹn một sự phá hủy sáng tạo.
PHẢN ỨNG ĐỐI VỚI sáng chế tài giỏi của Lee minh họa ý tưởng
then chốt của cuốn sách này. Sự sợ hãi phá hủy sáng tạo là lý do chủ yếu vì sao
đã không có sự gia tăng bền vững của mức sống giữa các cuộc Cách mạng đồ Đá Mới
và Cách mạng công nghiệp. Đổi mới công nghệ làm cho các xã hội loài người thịnh
vượng, nhưng nó cũng kéo theo việc thay thế cái cũ bằng cái mới, và sự phá hủy
các đặc quyền kinh tế và quyền lực chính trị của những người nhất định. Cho
tăng trưởng kinh tế bền vững, chúng ta cần các công nghệ mới, những cách mới để
làm các thứ, và thường thường chúng sẽ đến từ những người mới như Lee. Nó có
thể làm cho xã hội thịnh vượng, nhưng quá trình phá hủy sáng tạo mà nó khởi
động sẽ đe dọa sinh kế của những người làm việc với công nghệ cũ, như những
người đan tay mà sẽ thấy mình bị thất nghiệp bởi công nghệ của Lee. Quan trọng
hơn, những đổi mới lớn như máy dệt kim của Lee cũng đe dọa định hình lại quyền
lực chính trị. Cuối cùng chẳng phải là sự lo lắng cho số phận của những người
có thể trở thành những người thất nghiệp như kết quả của máy dệt của Lee đã là
cái dẫn Elizabeth I và James I đến chống đối sáng chế của ông; mà chính là sự
sợ hãi của họ rằng họ sẽ trở thành những kẻ thua chính trị – nỗi lo ngại của họ
rằng những người bị sáng chế sa thải sẽ gây ra bất ổn chính trị và đe dọa quyền
lực riêng của họ. Như chúng ta đã thấy với các Luddite (trang 85-86), thường có
thể phớt lờ sự kháng cự của những người lao động như những người đan bằng tay.
Nhưng giới elite, đặc biệt khi quyền lực của họ bị đe dọa, tạo ra một rào cản
ghê gớm hơn đối với đổi mới. Sự thực rằng họ có nhiều để mất từ sự phá hủy sáng
tạo có nghĩa không chỉ rằng họ sẽ không phải là những người đưa những sự đổi
mới sáng tạo mới vào, mà cũng có nghĩa rằng họ thường chống lại và thử chặn
những đổi mới như vậy. Như thế xã hội cần những người mới đến để đưa ra những
đổi mới cấp tiến nhất, và những người mới này và sự phá hủy sáng tạo họ gây ra
thường phải vượt qua nhiều nguồn kháng cự, kể cả sự kháng cự từ các nhà cai trị
và các elite hùng mạnh.
Trước nước Anh thế kỷ thứ mười bảy, các thể chế khai thác đã là
chuẩn mực suốt lịch sử. Có lúc chúng đã có thể tạo ra sự tăng trưởng kinh tế,
như đã được chỉ ra trong hai chương trước, đặc biệt khi chúng chứa những yếu tố
bao gồm, như ở Venice và Rome . Nhưng chúng đã không cho phép sự phá
hủy sáng tạo. Sự tăng trưởng mà chúng tạo ra đã không bền vững, và đi đến một
sự kết thúc bởi vì thiếu các đổi mới sáng tạo mới, bởi vì sự đấu đá chính trị
nội bộ kịch liệt do mong muốn để hưởng lợi từ sự khai thác gây ra, hoặc bởi vì
các yếu tố bao gồm mới sinh đã bị đảo ngược một cách dứt khoát, như ở Venice.
Ước tính tuổi thọ của một cư dân của một làng Netufian ở Abu
Hureyra có lẽ đã không khác mấy với ước tính tuổi thọ của một công dân La Mã Cổ
xua. Ước tính tuổi thọ của một người La Mã điển hình đã khá giống tuổi thọ của
một cư dân trung bình của nước Anh trong thế kỷ thứ mười bảy. Về mặt thu nhập,
trong năm 301 SCN, hoàng đế La Mã Diocletian đã ban hành Chỉ dụ về Giá Tối đa,
mà đã quy định một sơ đồ lương mà những loại người lao động khác nhau được trả.
Chúng ta không biết chính xác các loại lương và giá của Diocletian đã được thực
thi tốt như thế nào, nhưng khi sử gia kinh tế Robert Allen sử dụng chỉ dụ của
ngài để tính các mức sống của một một người lao động điển hình không có kỹ
năng, ông đã thấy chúng hầu như chính xác như các mức sống của một người lao
động không có kỹ năng ở Italy thế kỷ mười bảy. Xa hơn theo hướng bắc, ở nước
Anh, lương đã cao hơn và tăng lên, và tình hình đã đang thay đổi. Việc này đã
xảy ra như thế nào là chủ đề của chương này.
XUNG ĐỘT CHÍNH TRỊ LUÔN LUÔN HIỆN DIỆN
Xung đột về các thể chế và sự phân bổ các nguồn lực đã tràn khắp
trong lịch sử. Chúng ta đã thấy, chẳng hạn, xung đột chính trị đã định hình thế
nào sự tiến triển của La Mã Cổ xưa và Venice, nơi cuối cùng nó đã được giải
quyết có lợi cho các elite, những người đã có khả năng tăng sự bám giữ quyền
lực của họ.
Lịch sử Anh cũng đầy rẫy xung đột giữa nền quân chủ và các thần
dân của nó, giữa các phe nhóm khác nhau đấu tranh giành quyền lực, và giữa các
elite và các công dân. Kết quả, tuy vậy, đã không luôn luôn để củng cố quyền
lực của những người nắm nó. Trong năm 1215, các nam tước, tầng lớp elite dưới
vua, đã chống lại Vua John và đã bắt nhà vua ký Magna Carta (“Hiến chương Vĩ
đại”) ở Runnymede (xem Bản đồ 9, trang 112). Văn kiện này đã ban hành một số
nguyên tắc cơ bản mà đã là những thách thức đáng kể đối với quyền lực của nhà
vua. Quan trọng nhất, nó đã xác lập rằng nhà vua phải tham vấn các nam tước để
tăng các loại thuế. Điều khoản lôi thôi nhất đã là điều số 61, mà nó nói rõ,
“các nam tước sẽ chọn bất cứ hai mươi lăm nam tước nào thuộc lĩnh vực nào họ
muốn, những người với tất cả sức mạnh của họ là để tuân thủ, bảo vệ, và làm cho
được tuân thủ hòa bình và các quyền tự do mà chúng ta đã ban và đã xác nhận
chúng bằng hiến chương hiện tại này của chúng ta.” Về cơ bản, các nam tước đã
lập ra một hội đồng để đảm bảo chắc chắn rằng nhà vua thực hiện hiến chương, và
nếu nhà vua không thực hiện thì hai mươi lăm nam tước này đã có quyền chiếm các
lâu đài, đất đai, và các tài sản “... cho đến khi, theo phán xét của họ, đã
được bồi thường.” Vua John đã không thích Magna Carta, và ngay sau khi các nam
tước giải tán, ông đã bảo giáo hoàng bãi bỏ nó. Nhưng cả quyền lực chính trị
của các nam tước và ảnh hưởng của Magna Carta đã vẫn còn. Nước Anh đã đi bước
đi chập chững đầu tiên của nó hướng tới chủ nghĩa đa nguyên.
Xung đột về các thể chế chính trị vẫn tiếp tục, và quyền lực của
nền quân chủ đã bị hạn chế thêm bởi Quốc hội được bầu đầu tiên trong năm 1265.
Không giống Đại hội Dân thường ở Rome
hay các cơ quan lập pháp được bầu ngày nay, các thành viên của nó khởi đầu đã
là các quý tộc phong kiến, và sau đó đã là các hầu tước (knight) và các quý tộc
giàu có nhất của quốc gia. Bất chấp việc gồm có các elite, Quốc hội Anh đã phát
triển hai đặc trưng phân biệt. Thứ nhất, nó đã đại diện không chỉ cho các elite
gắn bó thân thiết với nhà vua mà cả một tập hợp rộng các lợi ích, kể cả các quý
tộc nhỏ dính dáng đến các ngành nghề khác nhau, như thương mại và công nghiệp,
và muộn hơn là “gentry – tầng lớp quý tộc nhỏ”, một tầng lớp mới của các nông
dân thương mại và di động hướng lên. Như thế Quốc hội đã trao quyền cho một bộ
phận khá rộng của xã hội – đặc biệt theo tiêu chuẩn của thời đó. Thứ hai, và
chủ yếu như một kết quả của đặc trưng thứ nhất, nhiều thành viên Quốc hội đã
phản đối một cách kiên định các nỗ lực của nền quân chủ để tăng quyền lực của
nó và sẽ trở thành trụ cột của những người chiến đấu chống lại chế độ quân chủ
trong Nội Chiến Anh và trong Cách mạng Vinh quang.
Dẫu có Magna Carta và Quốc hội được bầu đầu tiên, tuy vậy, xung
đột chính trị vẫn tiếp tục về quyền lực của nền quân chủ và ai là vua. Xung đột
giữa-elite này đã chấm dứt với Chiến tranh Hoa Hồng, một cuộc tranh chấp tay
đôi dài giữa các Dòng họ Lancaster và York , hai dòng họ với các
địch thủ để làm vua. Những người thắng đã là những người thuộc dòng họ Lancaster , mà ứng viên
làm vua của họ, Henry Tudor, đã trở thành Henry VII trong năm 1485.
Hai quá trình có quan hệ qua lại khác đã xảy ra. Quá trình thứ
nhất đã là sự tập trung hóa chính trị tăng lên, được khởi động bởi nhà Tudor.
Sau 1485 Henry VII đã tước vũ khí giới quý tộc, thực ra, phi quân sự họ và vì
thế mở rộng một cách ồ ạt quyền lực của nhà nước trung ương. Con trai ông,
Henry VIII, đã thực hiện qua bộ trưởng chính của ông, Thomas Comwell, một cuộc
cách mạng trong chính phủ. Trong các năm 1530, Comwell đã đưa vào một nhà nước
quan liêu mới sinh. Thay cho chính phủ chỉ làm việc nội trợ riêng cho nhà vua,
nó trở thành một tập hợp tách biệt của các tổ chức lâu dài. Điều này được bổ
sung bởi việc Henry VIII từ bỏ Giáo hội Công giáo (Catholic) La Mã và “sự Giải
tán các Tu viện,” mà trong đó Henry VIII đã chiếm đoạt tất cả đất của Giáo hội.
Việc dỡ bỏ quyền lực của Giáo hội đã là một phần của việc làm cho nhà nước tập
trung hơn. Sự tập trung hóa này của các thể chế nhà nước đã có nghĩa rằng lần
đầu tiên, các thể chế chính trị bao gồm đã trở nên có thể. Quá trình này được
khởi xướng bởi Henry VII và Henry VIII không chỉ đã tập trung hóa các thể chế
nhà nước mà cũng đã làm tăng đòi hỏi cho sự đại diện chính trị có cơ sở rộng
hơn. Quá trình tập trung hóa chính trị thực sự có thể dẫn đến một hình thức của
chủ nghĩa chuyên chế, khi nhà vua và các đồng minh của ông có thể nghiền nát
các nhóm hùng mạnh khác trong xã hội. Đấy quả thực đã là một trong những lý do
vì sao có sự phản đối chống lại sự tập trung hóa nhà nước, như chúng ta đã thấy
ở chương 3. Tuy vậy, đối lập với lực lượng này, sự tập trung hóa các thể chế
nhà nước cũng có thể huy động sự đòi hỏi một hình thức mới sinh của chủ nghĩa
đa nguyên, như nó đã làm ở nước Anh dưới thời Tudor. Khi các nam tước và các
elite khác nhận ra rằng quyền lực chính trị sẽ ngày càng tập trung hơn và rằng
quá trình này khó để chặn lại, họ sẽ đưa ra những đòi hỏi để có tiếng nói về
quyền lực được tập trung này sẽ được sử dụng ra sao. Trong nước Anh của cuối
thế kỷ mười lăm và thế kỷ thứ mưới sáu, điều này đã có nghĩa rằng các nỗ lực
của các nhóm này để có một Quốc hội như cái đối trọng với Quốc vương và để kiểm
soát một phần cách nhà nước hoạt động. Như thế dự án Tudor đã không chỉ khởi
xướng sự tập trung hóa chính trị, một trụ cột của các thể chế bao gồm, mà nó
cũng đóng góp gián tiếp cho chủ nghĩa đa nguyên, trụ cột khác của các thể chế
bao gồm.
Những sự phát triển này về các thể chế chính trị đã xảy ra trong
một bối cảnh của những thay đổi lớn về bản chất của xã hội. Đặc biệt quan trọng
đã là sự mở rộng xung đột chính trị mà đã mở rộng tập hợp các nhóm có khả năng
để đưa ra những đòi hỏi đối với nền quân chủ và các elite chính trị. Cuộc Khởi
nghĩa Nông dân (trang 99) năm 1381 đã là mấu chốt, mà sau đó elite Anh bị rung
chuyển bởi một chuỗi dài các cuộc nổi dậy của nhân dân. Quyền lực chính trị đã
được phân bổ lại không chỉ đơn giản từ nhà vua sang các thượng nghị sĩ, mà cũng
từ giới elite sang nhân dân. Những thay đổi này, cùng với những hạn chế ngày
càng tăng lên quyền lực của nhà vua, đã làm cho sự nổi lên của một liên minh
rộng chống lại chính thể chuyên chế là có thể và như thế đặt nền tảng cho các
thể chế chính trị đa nguyên.
Mặc dù bị phản bác, các thể chế chính trị và kinh tế của các triều
đại Tudor kế thừa và duy trì đã rõ ràng là khai thác. Trong năm 1603 Elizabeth
I, con gái Henry VIII người đã lên ngai vàng của nước Anh vào năm 1553, đã chết
mà không có con, các triều đại Tudor bị thay thế bằng triều đại nhà Stuart. Vua
Stuart đệ nhất, James I, đã không chỉ kế thừa các thể chế mà cả xung đột về
chúng. Ông đã muốn trở thành một nhà cai trị chuyên chế. Mặc dù nhà nước đã trở
nên tập trung hơn và sự thay đổi xã hội đang phân bổ lại quyền lực trong xã
hội, các thể chế chính trị đã vẫn chưa là các thể chế đa nguyên. Trong nền kinh
tế, các thể chế khai thác đã tự biểu thị không chỉ trong việc phản đối sáng chế
của Lee, mà trong dạng của các độc quyền, các độc quyền, và nhiều các độc quyền
hơn. Trong năm 1601, một danh sách các độc quyền này được đọc lên trong Quốc
hội, với một thành viên hỏi một cách châm biếm, “không có bánh mỳ ở đó ư?” Vào
năm 1621 số chúng đã có bảy trăm. Như sử gia Anh Christopher Hill diễn đạt, một
người đã sống
trong một ngôi nhà được xây bằng gạch độc quyền, với các cửa sổ …
có kính độc quyền; được sưởi ấm bằng than độc quyền (ở Ireland bằng củi gỗ độc
quyền), cháy trong lò sưởi làm bằng sắt độc quyền … Ông ta tắm bằng xà phòng
độc quyền, quần áo của ông ta được hồ cứng bằng hồ độc quyền. Ông ta mặc quần
áo bằng đăng ten độc quyền, vải lanh độc quyền, da thuộc độc quyền, chỉ vàng
độc quyền. Quần áo của ông ta được giữ bằng dây lưng độc quyền, cúc độc quyền
và ghim độc quyền. Chúng được nhuộm bằng các thuốc nhuộm độc quyền. Ông ta ăn
bơ độc quyền, các quả lý chua độc quyền, cá trích đỏ độc quyền, cá hồi độc
quyền, và tôm hùm độc quyền. Thức ăn của ông ta được thêm gia vị bằng muối độc
quyền, hồ tiêu độc quyền, dấm độc quyền … Ông viết bằng bút độc quyền, đọc (qua
các cặp kính độc quyền, với ánh sáng của nến độc quyền) các sách in độc quyền.
Các độc quyền này, và còn nhiều hơn nữa, đã cho các cá nhân hay
các nhóm quyền độc nhất để kiểm soát việc sản xuất nhiều mặt hàng. Chúng cản
trở loại phân bổ tài năng, mà hết sức cốt yếu cho sự thịnh vượng kinh tế.
Cả James I và con ông, người kế vị ông, Charles I đã khao khát
tăng cường nền quân chủ, giảm ảnh hưởng của Quốc hội, và thiết lập các thể chế
chuyên chế giống các thể chế được xây dựng ở Tây Ban Nha và Pháp để đẩy mạnh sự
kiểm soát của họ và của giới elite đối với nền kinh tế, làm cho các thể chế có
tính khai thác hơn. Xung đột giữa James I và Quốc hội đã lên đến tột đỉnh trong
các năm 1620. Trung tâm của cuộc xung đột này đã là sự kiểm soát thương mại cả
quốc tế lẫn bên trong các đảo Anh. Khả năng của Quốc vương để cấp các độc quyền
đã là nguồn chủ chốt của thu nhập cho nhà nước, và đã được dùng thường xuyên
như một cách để ban các quyền độc quyền cho những người ủng hộ nhà vua. Không
ngạc nhiên, thể chế khai thác này ngăn chặn sự gia nhập và hạn chế hoạt động
của thị trường cũng đã làm tổn hại hoạt động kinh tế và lợi ích của nhiều thành
viên của Quốc hội. Trong năm 1623, Quốc hội đã ghi một chiến thắng đáng kể bằng
tìm được cách để thông qua Đạo luật Độc quyền, mà đã cấm James tạo ra các độc
quyền nội địa mới. Ông vẫn còn có thể cấp độc quyền thương mại quốc tế, tuy
vậy, vì quyền hạn của Quốc hội đã không mở rộng ra các vấn đề quốc tế. Các độc
quyền hiện tồn, quốc tế hay nội địa, đã không bị đụng chạm đến.
Quốc hội đã không họp đều đặn và phải được nhà vua triệu tập họp.
Thông lệ mà đã nổi lên sau Magna Carta đã là nhà vua phải họp với Quốc hội để
nhận được sự phê chuẩn cho các khoản thuế mới. Charles đã lên ngôi năm 1625, đã
từ chối triệu tập Quốc hội họp sau 1629, và đã tăng cường các nỗ lực của James
I để xây dựng một chế độ chuyên chế vững chắc hơn. Ông ta đưa vào việc cho vay
bắt buộc, có nghĩa rằng người dân phải cho ông ta “vay” tiền, và ông ta đơn
phương thay đổi các điều khoản của món vay và từ chối trả nợ. Ông đã tạo ra và
bán các quyết định trong một lĩnh vực mà Đạo luật Độc quyền đã để lại cho ông:
các doanh nghiệp mạo hiểm buôn bán với nước ngoài. Ông cũng đã làm xói mòn tính
độc lập của ngành tư pháp và đã thử can thiệp để ảnh hưởng đến kết quả của các
vụ kiện. Ông đã thu nhiều khoản tiền phạt và tiền thù lao, khoản lôi thôi nhất
trong số đó là “tiền tàu thuyền” – trong năm 1634 đánh thuế các hạt ven biển để
đóng khoản ủng hộ Hải quân Hoàng gia, và trong năm 1635, mở rộng việc thu ra
các hạt nội địa. Tiền tàu đã được thu mỗi năm cho đến 1640.
Hành vi ngày càng chuyên chế và các chính sách khai thác của
Charles đã tạo ra sự oán giận và sự chống cự trên khắp đất nước. Trong năm 1640
ông đã đối mặt với một xung đột với Scotland và, không có đủ tiền để đưa một
quân đội thích đáng ra trận, ông đã buộc phải triệu tập Quốc hội để xin nhiều
thuế hơn. Cái gọi là Quốc hội Ngắn đã họp chỉ ba tuần. Các nghị sĩ hùng biện
những người đến London
đã từ chối bàn về thuế, nhưng đã thổ lộ nhiều lời phàn nàn, cho đến khi Charles
gạt bỏ chúng. Những người Scot đã nhận ra rằng Charles đã không có sự ủng hộ
của dân tộc và đã xâm chiếm nước Anh, chiếm đóng thành phố Newcastle . Charles đã mở ra các cuộc thương
thuyết, và những người Scot đã đòi hỏi rằng Quốc hội phải tham gia. Việc này
xui khiến Charles triệu tập cái khi đó được biết đến như Quốc hội Dài, bởi vì
nó tiếp tục họp cho đến 1648, từ chối giải tán ngay cả khi Charles đã yêu cầu
nó làm thế.
Trong năm 1642 Nội Chiến đã nổ ra giữa Charles và Quốc hội, cho dù
có nhiều người trong Quốc hội đã đứng về phía Quốc vương. Hình mẫu của các cuộc
xung đột đã phản ánh cuộc đấu tranh về các thể chế chính trị và kinh tế. Quốc
hội đã muốn một sự kết thúc các thể chế chính trị chuyên chế; nhà vua đã muốn
chúng được củng cố. Các xung đột này đã có gốc rễ trong kinh tế. Nhiều người đã
ủng hộ Quốc vương bởi vì họ đã được ban cho các độc quyền béo bở. Thí dụ, các
độc quyền địa phương được kiểm soát bởi các nhà buôn giàu và hùng mạnh ở
Shrewsbury và Onswestry đã được Quốc vương bảo vệ khỏi sự cạnh tranh của các
nhà buôn London. Các nhà buôn này đã đứng về phía Charles I. Ở phía bên kia,
công nghiệp luyện kim đã hưng thịnh xung quanh Birmingham bởi vì các độc quyền
đã là yếu ở đó và những người mới đến ngành công nghiệp đã không phải phục vụ
bảy năm học nghề như họ đã phải ở các phần khác của nước Anh. Trong Nội Chiến
họ đã làm ra gươm và tạo ra những người tình nguyện cho phía Quốc hội. Tương
tự, việc thiếu điều tiết phường hội ở hạt Lancashire đã cho phép sự phát triển
“Vải vóc Mới”, một loại mới của vải nhẹ, trước năm 1640. Vùng nơi việc sản xuất
các vải này được tập trung đã là phần duy nhất của Lancashire
ủng hộ phe Quốc hội.
Dưới sự lãnh đạo của Oliver Cromwell, các
Nghị sĩ hùng biện – được biết đến như những người Đầu Tròn gọi theo kiểu mà
theo đó tóc của họ được cắt – đã đánh bại những người theo chủ nghĩa bảo hoàng
– được biết đến như các Kỵ sĩ. Charles đã bị xét xử và bị hành quyết trong năm
1649. Sự thất bại của ông và sự thủ tiêu nền quân chủ, tuy vậy, đã không tạo ra
các thể chế bao gồm. Thay vào đó, nền quân chủ bị thay thế bởi chế độ độc tài
của Olivier Cromwell. Tiếp sau cái chết của Cromwell, nền quân chủ được phục
hồi trong năm 1660 và đã lấy lại nhiều đặc quyền mà đã bị tước mất trong năm
1649. Con trai của Charles, Charles II, sau đó lại bắt đầu cùng chương trình để
tạo ra chính thể chuyên chế ở nước Anh. Những nỗ lực này đã chỉ được tăng cường
bởi em trai ông James II, người lên ngôi sau khi Charles chết trong năm 1685.
Trong năm 1688, nỗ lực của James để thiết lập lại chính thể chuyên chế đã tạo
ra một cuộc nội chiến nữa. Lần này Quốc hội đã thống nhất hơn và có tổ chức
hơn. Họ đã mời Statholder (phó Vương, Thống đốc) Hà Lan, William xứ Orange , và vợ ông, Mary, con gái theo giáo
phái Kháng cách (Protestant) của James, để thay thế James. William mang một quân
đội và yêu sách ngai vàng, để cai trị không như một quốc vương chuyên chế mà
dưới một nền quân chủ lập hiến do Quốc hội tạo dựng. Hai tháng sau sự cập bến
của William ở các đảo Anh tại Brixham ở Devon (xem Bản đồ 9, trang 112), quân
đội của James đã tan rã và ông đã chạy trốn sang Pháp.
CÁCH MẠNG VINH QUANG
Sau chiến thắng trong Cách mạng Vinh quang, Quốc hội và William đã
thương lượng một hiến pháp mới. Những thay đổi đã được báo trước bởi “Tuyên
ngôn” của William được đưa ra không lâu trước cuộc xâm lấn của ông. Chúng được
lưu giữ thêm trong Tuyên ngôn về các Quyền (Declaration of Rights), do Quốc hội
soạn ra trong tháng Hai năm 1689. Tuyên ngôn đã được đọc hết cho William nghe
trong cùng phiên họp nơi ông được trao vương miện. Theo nhiều cách, Tuyên ngôn,
mà được gọi là Đạo luật về các Quyền sau khi nó được ký thành luật, đã mơ hồ.
Một cách quyết định, tuy vậy, nó đã thiết lập các nguyên tắc lập hiến chính
yếu. Nó đã xác định sự kế vị ngai vàng, và đã làm vậy theo một cách trệch đáng
kể khỏi các nguyên tắc cha truyền con nối được công nhận là đúng khi đó. Nếu
một lần Quốc hội đã có thể loại bỏ một quốc vương và thay thế ông ta bằng một
người họ ưa thích hơn, thì tại sao lại không lần nữa? Tuyên ngôn về các Quyền
cũng đã khẳng định rằng quốc vương không thể đình chỉ luật hay không được miễn
trừ nghĩa vụ tuân thủ luật, và nó cũng đã nhắc lại tính bất hợp pháp của thuế
mà không có sự tán thành của Quốc hội. Ngoài ra, nó tuyên bố rằng không thể có
quân đội thường trực nào ở nước Anh mà không có sự ưng thuận của Quốc hội. Sự
mơ hồ lẻn vào các điều khoản như điều số 8, mà tuyên bố, “việc bầu các thành
viên của Quốc hội phải là tự do,” nhưng nó đã không quy định rõ “tự do” được
xác định thế nào. Còn mơ hồ hơn là điều 13, mà nội dung chính của nó là các
Quốc hội cần phải tổ chức [họp] thường xuyên. Vì khi nào và liệu có thể tổ chức
[họp] Quốc hội đã là một vấn đề tranh cãi trong suốt cả thế kỷ, người ta có thể
kỳ vọng sự quy định chi tiết hơn nhiều trong điều khoản này. Tuy nhiên, lý do
của việc hành văn mơ hồ này là rõ. Các điều khoản phải được thực thi. Trong
triều đại của Charles II, đã có một Đạo luật Ba năm mà nó khẳng định rằng các
Quốc hội phải được triệu tập ít nhất một lần trong mỗi ba năm. Nhưng Charles đã
phớt lờ nó, và đã chẳng có gì xảy ra, bởi vì đã không có phương pháp để thực
thi nó. Sau 1688, Quốc hội đã có thể thử đưa ra một phương pháp để thực thi
điều khoản này, như các nam tước đã làm với hội đồng của họ sau khi Vua John ký
Magna Carta. Họ đã không làm vậy bởi vì họ đã không cần phải làm thế. Điều này
là bởi vì quyền lực và quyền quyết định đã được chuyển cho Quốc hội sau 1688.
Ngay cả không có các quy tắc hay luật lập hiến cụ thể, William đơn giản đã từ
bỏ nhiều tập quán của các vị vua trước đó. Ông đã ngừng can thiệp vào các quyết
định pháp lý và từ bỏ “các quyền” trước, như nhận được thu nhập thuế quan suốt
đời. Tóm lại, những thay đổi này về các thể chế chính trị thể hiện chiến thắng
của Quốc hội đối với nhà vua, và như thế chấm dứt chính thể chuyên chế ở nước
Anh và sau đó ở Vương quốc Anh – khi nước Anh và Scotland thống nhất bằng Đạo
luật Thống nhất năm 1707. Từ đó trở đi, Quốc hội đã nắm vững chắc sự kiểm soát
chính sách nhà nước. Điều này tạo ra một sự khác biệt to lớn, bởi vì các lợi
ích của Quốc hội đã rất khác với các lợi ích của các vua nhà Stuart. Vì nhiều
người trong Quốc hội đã có các khoản đầu tư quan trọng trong thương mại và công
nghiệp, họ đã có quyền lợi mạnh mẽ trong thực thi các quyền tài sản. Nhà Stuart
đã thường xuyên vi phạm các quyền tài sản; bây giờ chúng sẽ được giữ gìn. Hơn
nữa, khi nhà Stuart kiểm soát việc chính phủ chi tiêu tiền thế nào, Quốc hội đã
phản đối các khoản thuế lớn hơn và đã ngần ngại trước sự tăng cường quyền lực
của nhà nước. Bây giờ bản thân Quốc hội kiểm soát việc chi tiêu, nó đã vui lòng
tăng thuế và chi tiền cho các hoạt động mà nó cho là có ích. Đứng đầu trong các
hoạt động đó đã là tăng cường hải quân, mà sẽ bảo vệ các lợi ích buôn bán quốc
tế của nhiều thành viên của Quốc hội.
Thậm chí còn quan trọng hơn các lợi ích của các nghị sĩ hùng biện
đã là bản chất đa nguyên đang nổi lên của các thể chế chính trị. Nhân dân Anh
bây giờ đã có sự tiếp cận đến Quốc hội, theo một cách mà họ chưa từng có khi
chính sách bị nhà vua lèo lái. Tất nhiên, việc này đã chỉ là một phần bởi vì
các thành viên của Quốc hội được bầu. Nhưng vì nước Anh còn xa mới là một nền
dân chủ trong thời kỳ đó, sự tiếp cận này đã chỉ cung cấp một mức độ đại diện
khiêm tốn. Giữa nhiều bất bình đẳng của nó là chỉ có ít hơn 2 phần trăm dân số
đã có thể bỏ phiếu trong thế kỷ thứ mười tám, và những người này đã phải là các
đàn ông. Các thành phố nơi Cách mạng Công nghiệp đã xảy ra, Birmingham, Leeds,
Manchaster, và Sheffield, đã không có sự đại diện độc lập trong Quốc hội. Thay
vào đó các vùng nông thôn lại được đại diện quá mức. Tồi không kém là, quyền bỏ
phiếu ở vùng nông thôn, ở các “hạt-county”, đã dựa trên quyền sở hữu đất, và
nhiều vùng đô thị, các “thành phố – borough”, đã bị kiểm soát bởi elite nhỏ,
người đã không cho phép các nhà công nghiệp mới được bỏ phiếu hay ứng cử vào
một chức vụ. Trong thành phố Birmingham, chẳng hạn, mười ba thị dân đã có độc
quyền để bỏ phiếu. Thêm vào đấy đã có “các thành phố mục nát,” mà về mặt lịch
sử đã có quyền bỏ phiếu nhưng “đã mục nát hết,” hoặc bởi vì dân cư của nó đã
chuyển đi theo thời gian hay, trong trường hợp của Dunwich ở bờ đông nước Anh,
đã thực sự rơi vào đại dương như kết quả của sự sạt lở bờ. Trong mỗi của các
thành phố mục nát này, một số nhỏ những người bỏ phiếu bầu ra hai thành viên
của Quốc hội. Sarum cổ đã có bảy người có quyền bỏ phiếu, Dunwich ba mươi hai,
và mỗi thành phố bầu hai thành viên của Quốc hội.
Nhưng đã có những cách khác để ảnh hưởng đến Quốc hội và như thế
đến các thể chế kinh tế. Quan trọng nhất đã là thông qua kiến nghị, và cách này
đã quan trọng hơn rất nhiều so với mức độ hạn chế của dân chủ cho sự nổi lên
của chủ nghĩa đa nguyên sau Cách mạng Vinh quang. Bất cứ ai đã đều có thể kiến
nghị với Quốc hội, và họ đã làm. Rất quan trọng, khi người dân kiến nghị, Quốc
hội đã lắng nghe. Điều này hơn bất cứ thứ gì khác đã phản ánh sự thất bại của
chính thể chuyên chế, sự trao quyền cho một mảng khá rộng của xã hội, và sự
thăng tiến của chủ nghĩa đa nguyên ở nước Anh sau 1688. Hoạt động kiến nghị
cuống cồng cho thấy rằng quả thực đã là một nhóm rộng như vậy trong xã hội,
vượt quá xa những người ngồi trong hay thậm chí được đại diện trong Quốc hội,
mà đã có sức mạnh để ảnh hưởng đến cách nhà nước hoạt động. Và họ đã sử dụng
nó.
Trường hợp của các độc quyền minh họa điều này rõ nhất. Chúng ta
đã thấy ở trên các độc quyền đã ở trung tâm của các thể chế kinh tế khai thác
như thế nào trong thế kỷ thứ mười bảy. Chúng đã bị tấn công trong năm 1623 với
Đạo luật Độc quyền, và đã là một vấn đề gây bất đồng nghiêm trọng trong Nội
Chiến Anh. Quốc hội Dài đã xóa bỏ tất cả các độc quyền nội địa mà đã ảnh hưởng
hết sức đến đời sống nhân dân. Mặc dù Charles II và James II đã không thể đưa
các độc quyền này trở lại, họ đã tìm được cách để duy trì khả năng cấp các độc
quyền hải ngoại. Một đã là Công ty Hoàng gia Phi châu, Royal African Company,
RAC, mà điều lệ độc quyền của nó được Charles II ban hành năm 1660. Công ty này
đã giữ độc quyền về buôn bán nô lệ Phi châu béo bở, và thống đốc và cổ đông
chính của nó đã là James em của Charles, người không lâu sau đã trở thành James
II. Sau 1688 công ty đã mất không chỉ thống đốc của nó, mà cả người ủng hộ
chính của nó. James đã bảo vệ một cách chuyên cần sự độc quyền của công ty
chống lại “những kẻ xen ngang,” các nhà buôn độc lập những người đã thử mua nô
lệ ở Tây châu Phi và bán chúng ở châu Mỹ. Đây đã là việc buôn bán rất có lời,
và RAC đã đối mặt với nhiều thách thức, vì tất cả việc buôn bán khác của người
Anh qua Đại Tây Dương đã là tự do. Năm 1689 RAC đã chiếm hàng hóa của một kẻ
xen ngang, một Nightingale (Chim Sơn ca). Nightingale kiện RAC đã chiếm bất hợp
pháp hàng hóa, và Chánh Án Holt đã phán quyết rằng việc chiếm của RAC là bất
hợp pháp bởi vì nó đã sử dụng một quyền độc quyền được tạo ra bởi đặc quyền
hoàng gia. Holt đã lập luận rằng các đặc quyền độc quyền đã có thể được tạo ra
chỉ bởi luật, và việc này đã phải do Quốc hội làm. Như thế Holt đã đẩy tất cả
các độc quyền tương lai, không chỉ của RAC, vào tay của Quốc hội. Trước 1688
James II đã có thể nhanh chóng loại bỏ bất cứ thẩm phán nào người đưa ra phán
xét như vậy. Sau 1688 tình hình đã khác.
Bây giờ Quốc hội phải quyết định làm gì với sự độc quyền, và các
kiến nghi bắt đầu bay tới tấp. Một trăm ba mươi lăm đã đến từ những kẻ xen
ngang đòi tự do thương mại ở Đại Tây Dương. Mặc dầu RAC đã phản ứng bằng đúng
cách như thế, nó đã không thể hy vọng để sánh ngang số lượng hay quy mô của các
kiến nghị đòi cái chết của nó. Những kẻ xen ngang đã thành công trong định
khung sự phản đối của họ dưới dạng không chỉ của tư lợi hạn hẹp, mà của lọi ích
quốc gia, mà quả thực đã thế. Như một kết quả, chỉ 5 trong số 135 kiến nghi
được ký bởi bản thân các nhà buôn xen ngang, và 73 trong số các kiến nghị của
những kẻ xen ngang đã đến từ các tỉnh bên ngoài London, đối lại với 8 cho RAC.
Từ các thuộc địa, nơi việc đưa thỉnh cầu, kiến nghị cũng đã được phép, những kẻ
xen ngang thu được 27 kiến nghị, RAC được 11. Những kẻ xen ngang đã thu thập
được nhiều chữ ký hơn nhiều cho các kiến nghị của họ, tổng cộng 8.000 so với
2.500 cho RAC. Cuộc chiến đấu tiếp diễn cho đến 1698, khi độc quyền của RAC bị
hủy bỏ.
Cùng với vị trí mới này cho việc xác định các thể chế kinh tế và
sự đáp lại nhanh nhạy mới sau 1688, các nghị sĩ bắt đầu thực hiện một loạt
những thay đổi then chốt về các thể chế kinh tế và chính sách của chính phủ mà
cuối cũng đã mở đường cho Cách mạng Công nghiệp. Các quyền tài sản bị xói mòn
dưới thời nhà Stuart đã được tăng cường. Quốc hội đã bắt đầu một quá trình cải
cách về các thể chế kinh tế để thúc đẩy chế tác, hơn là đánh thuế và cản trở
nó. Loại “thuế nền lò sưởi” – một khoản thuế hàng năm cho mỗi lò sưởi hay cái lò,
mà các nhà sản xuất chế tác phải chịu nặng nhất, những người đã phản đối nó một
cách gay gắt – đã được hủy bỏ năm 1689, không lâu sau khi William và Mary lên
ngôi. Thay cho đánh thuế nền lò sưởi Quốc hội bắt đầu đánh thuế đất.
Việc phân phối lại các gánh nặng thuế khóa đã không chỉ là chính sách
ủng hộ chế tác mà Quốc hội ủng hộ. Cả một loạt các đạo luật và luật pháp mà mở
rộng thị trường và tính sinh lợi của ngành dệt len đã được thông qua. Tất cả
điều này có ý nghĩa chính trị, vì nhiều trong số các nghị sĩ những người phản
đối James đã đầu tư nhiều vào các doanh nghiệp chế tác mới nảy sinh này. Quốc
hội cũng đã thông qua luật pháp mà cho phép việc tổ chức lại hoàn toàn các
quyền tài sản về đất, cho phép sự củng cố và sự loại bỏ nhiều hình thức cổ xưa
về các quyền tài sản và quyền sử dụng.
Một ưu tiên khác của Quốc hội đã là cải cách ngành tài chính. Mặc
dù đã có sự mở rộng hoạt động ngân hàng và tài chính trong thời kỳ dẫn tới Cách
mạng Vinh quang, quá trình này đã được thắt chặt bởi việc thành lập Ngân hàng
Anh quốc (Bank of England) năm 1694, như một nguồn quỹ cho công nghiệp. Nó đã
là một hậu quả trực tiếp khác của Cách mạng Vinh quang. Việc thành lập Bank of
England đã mở đường cho một “cách mạng tài chính” sâu rộng hơn nhiều, mà đã dẫn
đến một sự mở rộng to lớn của các thị trường tài chính và hoạt động ngân hàng.
Vào đầu thế kỷ mười tám, các khoản vay đã sẵn có cho bất cứ ai người có thể đặt
các tài sản thế chấp cần thiết. Sổ sách của một ngân hàng tương đối nhỏ, C.
Hoare’s & Co. ở London, mà đã sống sót nguyên vẹn từ giai đoạn 1702-1724,
minh họa điểm này. Mặc dù ngân hàng đã có cho các quý tộc và chúa vay, toàn bộ
hai phần ba của những người vay lớn nhất của Hoare trong thời kỳ này đã không
phải từ các tầng lớp xã hội có đặc quyền. Thay vào đó họ đã là các nhà buôn,
các nhà doanh nghiệp, kể cả một John Smith, một người với cái tên thông dụng
của một người Anh trung bình, người đã được ngân hàng cho vay £2.600 trong giai
đoạn 1715-1719.
Cho đến nay chúng ta đã nhấn mạnh Cách mạng Vinh quang đã biến đổi
thế nào các thể chế chính trị Anh, biến chúng thành đa nguyên hơn, và cũng bắt
đầu đặt nền móng cho các thể chế kinh tế bao gồm. Còn một sự thay đổi quan
trọng nữa về các thể chế mà đã nổi lên từ Cách mạng Vinh quang: Quốc hội đã
tiếp tục quá trình tập trung hóa chính trị mà đã được nhà Tudor khởi xướng. Đã
không chỉ là các ràng buộc đã tăng lên, hay nhà nước đã điều tiết nền kinh tế
theo một cách khác, hay nhà nước Anh đã chi tiêu tiền cho những thứ khác nhau;
mà cũng là khả năng và năng lực của nhà nước đã tăng lên theo mọi hướng. Điều
này lần nữa lại minh họa các mối liên hệ giữa sự tập trung hóa chính trị và chủ
nghĩa đa nguyên: Quốc hội đã chống việc làm cho nhà nước hiệu quả hơn và được
cấp nguồn lực tốt hơn trước 1688 bởi vì Quốc hội đã không thể kiểm soát nó. Sau
1688 đã là một câu chuyện khác.
Nhà nước đã bắt đầu mở rộng, với các khoản chi mau chóng đạt mức
10 phần trăm của thu nhập quốc gia. Việc này được trụ đỡ bởi một sự mở rộng cơ
sở thuế, đặc biệt liên quan đến thuế hàng hóa, mà được thu trên sản phẩm của
một danh sách dài các mặt hàng được sản xuất trong nước. Đấy đã là ngân sách
nhà nước rất lớn trong giai đoạn đó, và thực ra lớn hơn mức mà chúng ta thấy
ngày nay ở nhiều phần của thế giới. Ngân sách nhà nước ở Colombia , chẳng
hạn, đã đạt quy mô tương đối này chỉ trong các năm 1980. Trong nhiều phần của
châu Phi hạ-Sahara – thí dụ ở Sierra
Leone – ngân sách nhà nước ngay cả ngày nay
cũng nhỏ hơn rất nhiều so với quy mô của nền kinh tế mà không có các dòng chảy
vào lớn của viện trợ nước ngoài.
Nhưng sự mở rộng quy mô của nhà nước chỉ là một phần của quá trình
tập trung hóa chính trị. Quan trọng hơn điều này đã là chất lượng của cách mà
nhà nước đã vận hành và cách ứng xử của những người kiểm soát nó và những người
làm việc trong [bộ máy của] nó. Việc xây dựng các thể chế nhà nước ở nước Anh
quay lại đến thời Trung Cổ, nhưng như chúng ta đã thấy (trang 186), các bước
theo hướng tập trung hóa chính trị và phát triển bộ máy hành chính hiện đại đã
được làm một cách dứt khoát bởi Henry VII và Henry VIII. Thế nhưng nhà nước vẫn
còn xa hình thức hiện đại mà sẽ nổi lên sau 1688. Thí dụ, nhiều người được chỉ
định đã được chọn trên cơ sở chính trị, chứ không phải bởi vì công trạng và tài
năng, và nhà nước đã vẫn chỉ có năng lực rất hạn chế để thu thuế.
Sau 1688 Quốc hội đã bắt đầu cải thiện khả năng để tăng thu nhập
thông qua đánh thuế, một sự phát triển được minh họa tốt bởi bộ máy quản lý
thuế hàng hóa, mà đã mở rộng nhanh chóng từ 1.211 người năm 1690 lên 4.800
người vào năm 1780. Các thanh tra thuế hàng hóa đã đóng ở khắp đất nước, được
giám sát bởi những người thu, những người tiến hành các đợt thanh tra để đo
lường và kiểm tra số lượng bánh mì, bia, và các mặt hàng khác phải chịu thuế
hàng hóa. Mức độ của hoạt động này được minh họa bởi sử gia John Brewer người
tái dựng lại các vòng thanh tra thuế hàng hóa của Thanh tra George
Cowperthwaite. Giữa 12 tháng Sáu và 5 tháng Bảy năm 1710, Thanh tra
Cowperthwaite đã đi 290 dặm trong quận Richmond ở Yorkshire. Trong thời gian
này ông đã đến 263 nhà buôn lương thực thực phẩm, 71 nhà buôn lúa mạch (malt),
20 nhà bán nến, và một nhà ủ rượu bia thông thường. Trong tất cả, ông đã tiến
hành 81 đo lường khác nhau về sản xuất và đã kiểm tra công việc của 9 nhân viên
thuế vụ hàng hóa những người đã làm việc cho ông ta. Tám năm sau chúng ta thấy
ông làm việc cũng siêng năng như thế, nhưng bây giờ ở quận Wakefield ,
trong một phần khác của Yorkshire . Ở Wakefield ông đã đi trung
bình hơn mười chín dặm mỗi ngày và đã làm việc sáu ngày một tuần, thường thanh
tra bốn hay năm cơ sở. Trong ngày nghỉ của mình, ngày chủ nhật, ông soạn sổ
sách của mình, cho nên chúng ta có một hồ sơ đầy đủ về các hoạt động của ông
ta. Quả thực, hệ thống thuế hàng hóa đã có sự giữ hồ sơ rất tinh vi. Các quan
chức giữ ba loại sổ sách khác nhau, mà tất cả trong số chúng được cho là khớp
với nhau, và bất cứ sự giả mạo nào với các sổ sách này đều là sự vi phạm nghiêm
trọng. Mức đáng chú ý này của sự giám sát nhà nước đối với xã hội vượt xa mức
mà các chính phủ của hầu hết các nước nghèo có thể đạt được hiện nay, và đấy là
trong năm 1710. Cũng quan trọng, sau 1688 nhà nước bắt đầu dựa nhiều hơn vào
tài năng và ít hơn vào người được bổ nhiệm chính trị, và đã phát triển một hạ
tầng cơ sở hùng mạnh để vận hành đất nước.
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP
Cách mạng Công nghiệp đã được biểu thị trong mọi khía cạnh của nền
kinh tế Anh. Đã có những cải thiện lớn trong giao thông, luyện kim, và sức hơi
nước. Nhưng lĩnh vực quan trọng nhất của đổi mới đã là cơ giới hóa việc sản
xuất vải sợi và sự phát triển các nhà máy để sản xuất các mặt hàng dệt được chế
tác này. Quá trình năng động này đã được tháo ra bởi những thay đổi thể chế mà
đã bắt nguồn từ Cách mạng Vinh quang. Đấy đã không chỉ là về việc xóa bỏ các
độc quyền nội địa, mà đã đạt được vào năm 1640, hay về các loại thuế khác nhau,
hay về sự tiếp cận đến tài chính. Mà đã là về một sự tổ chức lại cơ bản các thể
chế kinh tế ủng hộ các nhà đổi mới sáng tạo và các doanh nhân khởi nghiệp, dựa
trên sự nổi lên của các quyền tài sản ngày càng an toàn và hiệu quả.
Những sự cải thiện về tính an toàn và hiệu quả của các quyền tài
sản, chẳng hạn, đã đóng vai trò cốt yếu trong “cách mạng giao thông,” lót đường
cho Cách mạng Công nghiệp. Đầu tư vào kênh và đường sá, vào cái được gọi là
đường lớn, đã tăng lên ồ ạt sau năm 1688. Những khoản đầu tư này, bằng cách
giảm chi phí giao thông, đã giúp tạo ra các diều kiện tiên quyết cho Cách mạng
Công nghiệp. Trước năm 1688, việc đầu tư vào hạ tầng cơ sở như vậy đã bị cản
trở bởi các hành động tùy tiện của các nhà vua Stuart. Sự thay đổi tình hình
sau 1688 được minh họa sinh động bởi vụ sông Salwerpe, ở Worcestershire, nước
Anh. Năm 1662 Quốc hội đã thông qua một đạo luật để khuyến khích đầu tư nhằm
làm cho tàu bè có thể đi lại trên sông Salwerpe, và gia đình Baldwyn đã đầu tư
£6.000 cho mục đích này. Đổi lại họ nhận được quyền thu phí tàu bè đi lại trên
sông. Năm 1693 một dự luật được đưa ra cho Quốc hội để chuyển quyền thu phí tàu
bè cho Bá tước xứ Shrewsbury
và Lord Coventry. Đạo luật này bị thách thức bởi Sir Timothy Baldwyn, người đã
ngay lập tức đệ một đơn khiếu nại lên Quốc hội cho rằng dự luật được kiến nghị
đã cơ bản tước đoạt cha ông, người đã đầu tư nhiều vào dòng sông với dự tính
các khoản phí mà sau đó ông có thể thu. Baldwyn đã biện luận rằng “đạo luật mới
có xu hướng hủy bỏ đạo luật được nhắc đến đó, và lấy đi tất cả các công trình
và vật liệu đã được làm để thực hiện việc ấy.” Sự phân bổ lại các quyền như
việc này đã chính xác là loại việc được các quốc vương Stuart thực hiện.
Baldwyn đã lưu ý, “là hệ quả nguy hiểm để lấy đi quyền của bất cứ cá nhân nào,
giành được dưới một đạo luật của Quốc hội, mà không có sự đồng ý của họ.” Trong
trường hợp này, đạo luật mới đã thất bại, và các quyền của nhà Baldwyn đã được
giữ vững. Các quyền tài sản đã an toàn hơn nhiều sau 1688, một phần bởi vì làm
cho chúng an toàn đã phù hợp với lợi ích của Quốc hội và một phần bởi vì các
thể chế đa nguyên đã có thể bị ảnh hưởng bởi việc viết đơn kiến nghị. Chúng ta
thấy ở đây rằng sau 1688 hệ thống chính trị đã trở nên đa nguyên hơn đáng kể và
đã tạo ra sân chơi tương đối bằng phẳng bên trong nước Anh.
Đặt cơ sở cho cách mạng giao thông và, nói chung, cho việc sắp xếp
lại đất đai mà xảy ra trong thế kỷ thứ mười tám đã là các đạo luật của Quốc hội
mà làm thay đổi bản chất của quyền sở hữu tài sản. Cho đến 1688 đã có thậm chí
một điều tưởng tượng pháp lý rằng tất cả đất đai ở nước Anh cuối cùng đều được
sở hữu bởi Quốc vương, một di sản trực tiếp của tổ chức phong kiến của xã hội.
Nhiều miếng đất đã bị đè nặng bởi nhiều hình thức cổ xưa của các quyền tài sản
và nhiều đòi hỏi chồng chéo nhau. Nhiều đất đai đã được giữ trong cái gọi là
các bất động sản ruộng đất công bằng (equitable estate), mà có nghĩa rằng các
chủ đất không thể thế chấp, cho thuê, hay bán đất. Đất chung đã có thể thường
chỉ được sử dụng cho những cách sử dụng truyền thống. Đã có những trở ngại to
lớn để sử dụng đất theo những cách mà là đáng mong muốn về mặt kinh tế. Quốc
hội đã bắt đầu để thay đổi tình trạng này, cho phép các nhóm nhân dân kiến nghị
với Quốc hội để đơn giản hóa và tổ chức lại các quyền tài sản, những sự sửa đổi
mà sau đó được biểu hiện trong hàng trăm các đạo luật của Quốc hội.
Sự tổ chức lại các thể chế kinh tế cũng
được thể hiện trong sự nổi lên của một chương trình nghị sự để bảo vệ sự sản
xuất hàng dệt trong nước chống lại hàng nhập khẩu nước ngoài. Không ngạc nhiên,
các nghị sĩ và các cử tri của họ đã không phản đối tất cả các rào cản gia nhập
và các độc quyền. Những rào cản và độc quyền mà có thể gia tăng thị trường và
lợi nhuận riêng của họ được hoan nghênh. Tuy vậy, một cách quyết định, các thể
chế chính trị đa nguyên – sự thực rằng Quốc hội đã đại diện cho, đã trao quyền
cho, và đã lắng nghe một mảng rộng của xã hội – đã có nghĩa rằng các rào cản
gia nhập này sẽ không bóp nghẹt các nhà công nghiệp khác hay sẽ gạt bỏ hoàn
toàn những người mới đến, như Serrata đã làm ở Venice (trang 155-156). Các nhà
chế tác len hùng mạnh mau chóng phát hiện ra điều này.
Trong năm 1688 một số của các hàng nhập khẩu quan trọng nhất vào
Anh đã là hàng dệt từ Ấn Độ, vải in hoa và vải muslin, mà cấu thành khoảng một
phần tư của toàn bộ hàng dệt nhập khẩu. Cũng đã quan trọng là lụa nhập từ Trung
Quốc. Vải in hoa và lụa được nhập bởi Công ty Đông Ấn, mà trước 1688 đã được
hưởng một sự độc quyền do chính phủ ban cho về thương mại với châu Á. Nhưng độc
quyền và quyền lực chính trị của Công ty Đông Ấn đã được duy trì nhờ các khoản
đút lót lớn cho James II. Sau 1688 công ty ở vào một vị thế dễ bị tổn thương và
mau chóng bị tấn công. Việc này được tiến hành dưới hình thức của một cuộc
chiến tranh ác liệt của các kiến nghị với các nhà buôn hy vọng để buôn bán ở
Viễn Đông và Ấn Độ đòi hỏi rằng Quốc hội thừa nhận sự cạnh tranh đối với Công
ty Đông Ấn, trong khi công ty đáp trả với các phản kiến nghị và đưa ra đề nghị
cho Quốc hội vay tiền. Công ty đã thua và một Công ty Đông Ấn mới để cạnh tranh
với nó đã được thành lập. Nhưng các nhà sản xuất hàng dệt đã không chỉ muốn
nhiều cạnh tranh hơn trong buôn bán với Ấn Độ. Họ đã muốn việc nhập khẩu các
hàng dệt rẻ tiền (vải in hoa) bị đánh thuế hay thậm chí bị cấm. Các nhà sản xuất
này đã phải đối mặt với cạnh tranh mạnh từ các hàng Ấn Độ nhập khẩu rẻ này. Tại
thời điểm này các nhà sản xuất nội địa quan trọng nhất đã sản xuất các hàng dệt
len, nhưng các nhà sản xuất vải bông đang trở nên ngày càng quan trọng cả về
mặt kinh tế lẫn chính trị.
Ngành len đã tăng các nỗ lực để bảo vệ mình ngay từ các năm 1660.
Nó đã thúc đẩy “Luật Điều chỉnh Chi tiêu,” mà, giữa những thứ khác, đã cấm việc
mặc hay dùng vải có màu sáng hơn. Nó cũng đã lobby Quốc hội để thông qua pháp
luật trong năm 1666 và 1678 mà khiến cho là bất hợp pháp để ai đó được chôn cất
với bất cứ vải liệm nào khác vải liệm bằng len. Cả hai biện pháp đã bảo vệ thị
trường cho các mặt hàng len và đã làm giảm sự cạnh tranh mà các nhà sản xuất
Anh đối mặt từ châu Á. Tuy nhiên, trong thời kỳ này Công ty Đông Ấn đã quá mạnh
để hạn chế nhập khẩu hàng dệt Á châu. Chiều hướng đã thay đổi sau 1688. Giữa
1696 và 1698, các nhà chế tác len từ miền Đông nước Anh và miền Tây đã liên
minh với các nhà dệt lụa từ London, Canterbury và Công ty Levant để hạn chế
nhập khẩu. Các nhà nhập khẩu lụa từ Levant, cho dù họ mới mất độc quyền của họ,
đã muốn loại trừ lụa Á châu để tạo ra một niche (thị trường ngách độc đáo) cho
lụa từ Đế chế Ottoman. Liên minh này đã bắt đầu trình bày các dự luật lên Quốc
hội để hạn chế việc mặc vải bông và lụa Á châu và cả về nhuộm và in hoa vải Á
châu ở nước Anh. Đáp lại, trong năm 1701, Quốc hội cuối cùng đã thông qua “một
Đạo luật cho việc nhận người nghèo vào làm hiệu quả hơn, bằng khuyến khích các
ngành công nghiệp của vương quốc này.” Từ tháng Chín 1701, nó đã ra sắc lệnh:
“Tất cả lụa đã được chế biến, đồ bengal và chất liệu, pha với lụa làm từ cỏ,
được sản xuất ở Ba Tư, Trung Quốc, hay Đông Ấn, tất cả vải in hoa được in,
nhuộm, hay được nhuộm màu ở đó, mà được hay sẽ được nhập vào vương quốc này, sẽ
không được mặc.”
Bây giờ đã là bất hợp pháp để mặc đồ lụa và vải in hoa Á châu ở
nước Anh. Nhưng đã vẫn có thể nhập khẩu chúng để tái xuất khẩu sang châu Âu hay
sang nơi khác, đặc biệt sang các thuộc địa châu Mỹ. Hơn nữa, vải in hoa trơn,
chưa được in hoa có thể được nhập về và in hoa tại Anh, và vải muslin đã được
miễn không bị cấm. Sau một cuộc đấu tranh dài, các lỗ hổng này, như các nhà sản
xuất vải len nội địa coi chúng, đã được bịt bằng Đạo luật Vải in hoa năm 1721:
“Sau 25-12-1722, sẽ là không hợp pháp đối với bất cứ cá nhân hay các cá nhân
nào để sử dụng, mặc ở Vương quốc Anh, trong bất cứ quần áo hay bất cứ đồ dùng
nào, bất cứ vải hoa nào được in, vẽ, nhuộm màu hay nhuộm.” Mặc dù đạo luật này
đã loại bỏ sự cạnh tranh từ châu Á đối với đồ len Anh, nó vẫn để một ngành công
nghiệp dệt bông và lanh nội địa tích cực cạnh tranh với ngành len: sợi bông và
lanh pha với nhau để tạo ra loại vải được nhân dân ưa chuộng gọi là vải fustian
(bông thô). Sau khi đã loại bỏ sự cạnh tranh Á châu, ngành len bây giờ quay
sang để ngăn chặn đồ lanh. Lanh được làm ra chủ yếu ở Scotland và Ireland , mà tạo một cơ hội nào đó
cho một liên minh Anh để đòi loại các nước này ra khỏi các thị trường Anh. Tuy
vậy, đã có các giới hạn cho quyền lực của các nhà sản xuất len. Các nỗ lực mới
của họ vấp phải sự chống đối mạnh mẽ từ các nhà sản xuất vải fustian tại các
trung tâm công nghiệp đang nảy nở ở Manchester , Lancaster , và Liverpool .
Các thể chế chính trị đa nguyên đã ngụ ý rằng tất cả các nhóm khác nhau này bây
giờ đã có sự tiếp cận đến quá trình chính sách ở Quốc hội thông qua bỏ phiếu
và, quan trọng hơn, gửi đơn kiến nghị. Mặc dù các kiến nghị được cả hai bên
soạn thảo và bay tới tấp, cóp nhặt chữ ký để ủng hộ hay chống đối, kết quả của
cuộc xung đột này đã ủng hộ nhóm lợi ích mới và chống lại những người trong
ngành len. Đạo luật Manchaster năm 1736 đã đồng ý rằng “một lượng lớn vật liệu
được làm bằng sợi lanh và sợi bông giả len đã được chế tạo trong các năm qua,
và đã được in và vẽ hoa ở bên trong Vương quốc Anh này.” Rồi nó tiếp tục để
khẳng định rằng “không có gì trong Đạo luật [năm 1721] được nhắc đến này sẽ
được gia hạn hay được hiểu là để cấm việc mặc hay sử dụng trong y phục, vật
liệu nội trợ, đồ nội thất hay đồ khác, bất cứ loại vật liệu nào được làm bằng
sợi lanh và sợi bông giả len, được sản xuất và in hay vẽ với bất cứ màu hay các
màu nào bên trong Vương quốc Anh.”
Đạo luật Manchaster đã là một thắng lợi quan trọng cho các nhà chế
tạo bông mới ra đời. Nhưng tầm quan trọng lịch sử và kinh tế của nó thực ra là
lớn hơn nhiều. Thứ nhất, nó đã giải thích các giới hạn của các rào cản gia nhập
mà các thể chế chính trị đa nguyên của nước Anh có thể cho phép. Thứ hai, trong
nửa thế kỷ tiếp theo, những đổi mới công nghệ trong công nghiệp vải bông sẽ đóng
một vai trò trung tâm trong Cách mạng Công nghiệp và biến đổi xã hội một cách
cơ bản bằng đưa vào hệ thống nhà máy.
Sau 1688, mặc dù về mặt nội địa đã nổi lên một sân chơi bằng
phẳng, về mặt quốc tế Quốc hội đã cố gắng làm nghiêng nó. Điều này đã là hiển nhiên
không chỉ từ Đạo luật Vải in hoa mà cả từ các Đạo luật Hàng hải, mà đạo luật
đầu tiên trong số đó được thông qua năm 1651, và chúng vẫn còn hiệu lực với
những sửa đổi trong hai trăm năm tiếp theo. Mục đích của các đạo luật này đã là
để tạo thuận lợi cho việc nước Anh độc quyền hóa thương mại quốc tế – mặc dù
một cách quyết định đấy đã là sự độc quyền hóa không phải bởi nhà nước mà bởi
khu vực tư nhân. Nguyên lý cơ bản đã là, [hàng hóa] thương mại Anh phải được
chở trên các tàu bè Anh. Các đạo luật này làm cho việc các tàu nước ngoài chở
hàng hóa từ bên ngoài châu Âu đến Anh và các thuộc địa của Anh là bất hợp pháp,
cũng bất hợp pháp tương tự đối với các tàu của nước thứ ba để chở hàng hóa từ
một nước châu Âu khác đến Anh. Lợi thế này đối với các thương gia và các nhà
chế tạo Anh đã làm tăng một cách tự nhiên các khoản lợi nhuận của họ và có thể
đã khuyến khích hơn nữa sự đổi mới trong các hoạt động mới hết sức sinh lời
này.
Vào năm 1760 sự kết hợp của tất cả các nhân tố này – các quyền tài
sản được cải thiện và mới, hạ tầng cơ sở được cải thiện, một chế độ tài khóa
được thay đổi, sự tiếp cận lớn hơn đến tài chính, và một sự bảo hộ hung hăng
các nhà buôn và các nhà chế tác – đã bắt đầu có một tác động. Sau thời điểm
này, đã có một sự nhảy vọt về số các đổi mới được cấp bằng sáng chế, và sự nở
rộ hoa của sự thay đổi công nghệ mà đã là tâm điểm của Cách mạng Công nghiệp đã
bắt đầu trở nên rõ rệt. Những đổi mới xảy ra trên nhiều lĩnh vực, phản ánh môi
trường thể chế đã được cải thiện. Một lĩnh vực cốt yếu đã là lực năng lượng,
nổi tiếng nhất đã là những biến đổi trong sử dụng động cơ hơi nước mà là kết
quả của các ý tưởng của James Watt trong các năm 1760.
Đột phá ban đầu của Watt đã là đưa vào một bình ngưng tụ tách biệt
cho hơi nước sao cho cylinder mà chứa piston có thể được giữ nóng liên tục,
thay cho việc phải được làm nóng lên và làm nguội đi. Sau đó ông đã phát triển
nhiều ý tưởng khác, kể cả các phương pháp hiệu quả hơn nhiều để biến đổi chuyển
động của động cơ hơi nước thành lực hữu ích, đặc biệt là hệ thống bánh răng
truyền động “mặt trời và các hành tinh” của ông. Trong tất cả các lĩnh vực này
những đổi mới công nghệ được xây dựng trên các công trình trước của những người
khác. Trong ngữ cảnh của máy hơi nước, việc này bao gồm công trình trước của nhà
sáng chế Anh Thomas Newcomen và cả của Dionysius Papin, một nhà vật lý học và
nhà sáng chế Pháp.
Câu chuyện về sáng chế của Papin là một thí dụ nữa về mối đe dọa
của sự phá hủy sáng tạo đã cản trở sự thay đổi công nghệ như thế nào dưới các
thể chế khai thác. Papin đã phát triển một thiết kế cho một “máy tiêu hóa hơi
nước” trong năm 1679, và trong năm 1690 ông đã mở rộng máy này thành một động
cơ có piston. Trong năm 1705, ông đã dùng động cơ thô sơ này để xây dựng tàu
hơi nước đầu tiên trên thế giới. Papin khi đó là giáo sư toán học tại Đại học
Marburg, ở bang Kessel của Đức. Ông đã quyết định châm hơi nước cho chiếc tàu
dọc theo sông Fulda đến sông Weser. Bất cứ tàu thuyền nào đi tuyến này đều phải
dừng ở thành phố Münden. Vào thời đó, giao thông đường thủy trên các sông Fulda
và Weser đã là độc quyền của một phường hội chủ thuyền. Papin hẳn đã phải cảm
thấy rằng có thể có rắc rối. Bạn và người hướng dẫn của ông, nhà vật lý học Đức
nổi tiếng Gottfried Leibnitz, đã viết cho Tuyển hầu Kassel, thủ hiến bang, một
kiến nghị rằng phải để cho Papin được “… đi mà không bị quấy nhiễu …” qua
Kassel. Thế nhưng kiến nghị của Leibnitz đã bị khước từ và ông đã nhận được một
câu trả lời cộc lốc rằng “Các ủy viên hội đồng Cử tri đã thấy những trở ngại
nghiêm trọng trong cách công nhận kiến nghị trên, và, không đưa ra các lý do
của họ, họ đã chỉ thị cho tôi để thông báo với ngài về quyết định của họ, và
kết quả là Ngài Tuyển hầu đã không thừa nhận lời yêu cầu.” Không nao núng,
Papin quyết định dù sao đi nữa vẫn tiến hành chuyến đi. Khi tàu hơi nước của
ông đến Münden, phường hội chủ thuyền đầu tiên đã thử kiếm một thẩm phán địa
phương để tịch thu chiếc tàu, nhưng đã không thành công. Sau đó các chủ thuyền
đã tấn công tàu của Papin và đã đập tan chiếc thuyền và động cơ hơi nước thành
từng mảnh. Papin đã chết trong cảnh nghèo túng và được chôn trong một nấm mồ
không được đánh dấu. Trong nước Anh thời Tudor hay Stuart, Papin đã có thể nhận
được sự đối xử tương tự, nhưng tất cả đã thay đổi sau 1688. Quả thực, Papin đã
có ý định lái tàu của mình đến London trước khi nó bị phá hủy.
Trong luyện kim, những đóng góp then chốt đã được đưa ra trong các
năm 1780 bởi Henry Cort, người đã đưa ra các kỹ thuật mới để xử lý các tạp chất
trong sắt, cho phép sản xuất sắt được gia công có chất lượng tốt hơn nhiều.
Việc này có tính quyết định cho việc chế tạo các bộ phận máy, đinh, và các công
cụ. Việc sản xuất lượng khổng lồ sắt được gia công sử dụng kỹ thuật của Cort đã
được tạo thuận lợi bởi những đổi mới của Abraham Darby và các con ông, những người
đã đi tiên phong trong sử dụng than để nung chảy sắt bắt đầu vào năm 1709.
Phương pháp này được nâng cao trong năm 1762 bởi John Smeaton bằng cách thích
nghi sức nước để vận hành các cylinder thổi trong sản xuất than coke. Sau đấy,
than củi đã biến khỏi việc sản xuất sắt, được thay thế bằng than đá, mà đã rẻ
hơn nhiều và sẵn có hơn nhiều.
Cho dù sự đổi mới hiển nhiên mang tính tích lũy, đã có sự tăng tốc
rõ rệt trong giữa thế kỷ thứ mười tám. Không có nơi nào có thể thấy rõ hơn
trong sản xuất hàng dệt. Hoạt động cơ bản nhất trong sản xuất hàng dệt là là xe
sợi, mà bao gồm việc lấy xơ thực vật hay động vật như bông và len, và xe chúng
lại với nhau để tạo thành sợi. Sợi này được dệt thành vải, thành hàng dệt. Một
trong những đổi mới vĩ đại của thời trung cổ đã là guồng xe sợi, mà đã thay thế
việc xe bằng tay. Sáng chế này đã xuất hiện ở châu Âu năm 1280, có lẽ được
truyền bá từ Trung Đông. Các phương pháp xe đã không thay đổi cho đến thế kỷ
thứ mười tám. Các đổi mới đáng kể bắt đầu trong năm 1738, khi Lewis Paul đã lấy
bằng sáng chế về phương pháp mới để xe sợi sử dụng các con lăn thay thế bàn tay
người để kéo xơ được xe. Tuy vậy, máy đã không hoạt động tốt, và chính những
đổi mới của Richard Arkwright và James Hargreaves đã thực sự cách mạng hóa việc
xe sợi.
Trong năm 1769 Arkwright, một trong những nhân vật có ảnh hưởng
lớn của Cách mạng Công nghiệp, ông đã lấy được bằng sáng chế về “khung nước,”
mà đã là một sự cải thiện khổng lồ so với máy của Lewis. Ông đã lập một hãng
với Jedediah Strutt và Samuel Need, những người đã là các nhà chế tạo hàng dệt
kim. Trong năm 1771 họ đã xây dựng một trong những nhà máy đầu tiên của thế
giới ở Cromford. Các máy đã được cấp năng lượng bởi nước, nhưng Arkwright muộn
hơn đã tiến hành bước chuyển quyết định sang năng lượng hơi nước. Vào năm 1774
hãng của ông đã sử dụng sáu trăm công nhân, và ông đã mở rộng một cách hùng hổ,
cuối cùng đã dựng các nhà máy ở Manschaster, Matlock, Bath, và New Lanark tại
Scotland. Những đổi mới của Arkwright đã được bổ sung bởi sáng chế của Hargreaves
trong năm 1764 về máy kéo sợi cơ khí, mà đã được phát triển thêm bởi Samuel
Crompton thành “mule-máy kéo sợi,” và muộn hơn bởi Richard Roberts thành “máy
kéo sợi tự hoạt động.” Những tác động của các đổi mới này đã thật sự cách mạng:
vào đầu thế kỷ, đã cần 50.000 giờ đối với những người xe sợi bằng tay để xe một
trăm pound bông. Khung nước của Arkwright đã có thể làm việc đó trong 300 giờ,
và máy kéo sợi tự hoạt động trong 135 giờ.
Cùng với cơ giới hóa kéo sợi đến cơ giới hóa dệt. Một bước quan
trọng đầu tiên đã là sáng chế ra chiếc thoi bay bởi Jonh Kay trong năm 1733.
Mặc dù ban đầu nó đã chỉ làm tăng năng suất của các thợ dệt bằng tay, tác động
lâu dài nhất của nó đã là trong việc mở cách để cơ giới hóa sự dệt. Dựa trên
con thoi bay, Edmund Cartwright đã đưa ra khung cửi máy (power loom) trong năm
1785, một bước đầu tiên trong một loạt những đổi mới mà dẫn đến các máy thay
thế những kỹ năng bằng tay trong việc dệt như chúng đã làm trong kéo sợi.
Công nghiệp dệt Anh không chỉ đã là động lực đằng sau Cách mạng
Công nghiệp mà cũng đã cách mạng hóa nền kinh tế thế giới. Hàng xuất khẩu Anh,
dẫn đầu bởi hàng dệt bông, đã tăng gấp đôi giữa 1780 và 1800. Chính sự tăng
trưởng trong khu vực này đã kéo toàn bộ nền kinh tế lên phía trước. Sự kết hợp
của đổi mới công nghệ và đổi mới tổ chức đã cung cấp mô hình cho sự tiến bộ
kinh tế mà đã biến đổi các nền kinh tế của thế giới trở thành các nền kinh tế
giàu.
Những người mới với các ý tưởng mới đã là thiết yếu cho sự
biến đổi này. Hãy xem xét đổi mới về giao thông. Ở nước Anh đã có nhiều làn
sóng của những đổi mới như vậy: đầu tiên là các kênh, rồi đường sá, và cuối
cùng là đường sắt. Tại mỗi trong các làn sóng này các nhà đổi mới đã là những
người mới. Các kênh đã bắt đầu được phát triển ở Anh sau 1770, và vào năm 1810
chúng đã kết nối nhiều trong các vùng chế tạo quan trọng nhất. Khi Cách mạng
Công nghiệp mở ra, các kênh đã đóng một vai trò quan trọng trong làm giảm các
chi phí vận tải để luân chuyển các hàng hóa công nghiệp cồng kềnh đã hoàn
thành, như các mặt hàng dệt bông, và các đầu vào để tạo ra chúng, đặc biệt là
bông thô và than cho các máy hơi nước. Các nhà đổi mới ban đầu trong xây dựng
các kênh đã là những người như James Brindley, người đã được Công tước xứ
Bridgewater tuyển dụng để xây dựng Kênh Bridgewater, mà đã kết thúc với việc
kết nối thành phố công nghiệp then chốt Manchester với cảng Liverpool. Sinh ra
ở vùng nông thôn Derbyshire, Brindley vốn theo nghề thợ máy xay. Danh tiếng của
ông về việc tìm ra các giải pháp sáng tạo cho các vấn đề kỹ thuật đã đến tai
công tước. Ông đã không có kinh nghiệm trước nào với các vấn đề giao thông, mà
cũng đã đúng với các kỹ sư kênh vĩ đại khác như Thomas Telford, người đã vào
đời với tư cách một thợ xây đá, hay Jonh Smeaton, một nhà chế tạo công cụ và kỹ
sư.
Hệt như các kỹ sư kênh vĩ đại đã không có quan hệ trước nào với
giao thông, các kỹ sư đường bộ và đường sắt vĩ đại cũng không. John McAdam,
người đã sáng chế ra tarmac [phương pháp trải mặt đường bằng đá dăm trộn chất
kết dính như nhựa đường sau này] vào khoảng 1816, đã là con trai thứ hai của
một quý tộc nhỏ. Xe lửa hơi nước đầu tiên được xây dựng bởi Richard Trevithick
trong năm 1804. Bố Trevithick đã dính líu đến việc khai mỏ ở Cornwall, và
Richard đã tham gia cùng công việc kinh doanh khi tuổi còn non, trở nên bị mê
hoặc bởi máy hơi nước được dùng để bơm [nước] khỏi mỏ. Đáng kể hơn đã là những
đổi mới của George Stephenson, con trai của cha mẹ mù chữ và nhà sáng chế của
xe lửa “Tên lửa” nổi tiếng, người đã bắt đầu làm việc như một thợ máy ở một mỏ
than.
Những người mới cũng đã thúc đẩy ngành dệt bông cốt yếu. Một số
trong những người tiên phong của ngành mới này đã là những người trước đó đã
dính líu sâu trong sản xuất và buôn bán vải len. John Foster, chẳng hạn, đã sử
dụng bảy trăm thợ dệt khung cửi tay trong ngành len vào lúc ông chuyển sang dệt
bông và mở Nhà máy Black Dyke trong năm 1835. Nhưng những người như Foster đã
là thiểu số. Chỉ khoảng một phần năm của các nhà công nghiệp hàng đầu vào thời
ấy đã có dính líu trước đó đến bất cứ thứ gì giống các hoạt động chế tạo. Điều
này không gây ngạc nhiên. Một là, công nghiệp bông đã phát triển ở các thị trấn
mới ở miền bắc nước Anh. Các nhà máy đã là một cách mới hoàn toàn để tổ chức
sản xuất. Ngành len đã được tổ chức theo một cách rất khác, bằng cách “đưa” vật
liệu cho các cá nhân ở nhà của họ, những người tự mình xe và dệt. Hầu hết những
người trong ngành len vì thế đã được trang bị tồi để chuyển sang bông, như
Foster đã chuyển. Đã cần đến những người mới để phát triển và sử dụng các công
nghệ mới. Sự mở rộng nhanh chóng của ngành dệt bông đã sát hại công nghiệp len
– sự phá hủy sáng tạo đang hoạt động.
Sự phá hủy sáng tạo tái phân bổ không đơn giản chỉ thu nhập và của
cải, mà cả quyền lực chính trị, như William Lee đã học được khi ông thấy các
nhà chức trách đã hết sức không dễ tiếp thu sáng chế của ông bởi vì họ đã sợ
các hệ quả chính trị của nó. Khi nền kinh tế công nghiệp đã mở rộng ở
Manchester và Birmingham, các chủ nhà máy mới và các nhóm trung lưu nổi lên
xung quanh họ đã bắt đầu phản đối sự tước quyền bầu cử của họ và các chính sách
của chính phủ chống lại các quyền lợi của họ. Ứng viên hàng đầu của họ đã là
các Luật Ngũ cốc, mà đã cấm nhập khẩu “ngũ cốc” – tất cả thóc lúa và ngũ cốc,
nhưng chủ yếu là lúa mì – nếu giá xuống quá thấp, như thế đảm bảo rằng lợi nhuận
của các địa chủ lớn được giữ ở mức cao. Chính sách này đã rất tốt cho các địa
chủ lớn những người sản xuất lúa mì, nhưng xấu cho các nhà chế tạo, bởi vì họ
phải trả lương cao hơn để bù cho giá bánh mì cao.
Với công nhân được tập trung vào các nhà
máy mới và các trung tâm công nghiệp, đã trở nên dể để tổ chức và gây náo loạn.
Vào các năm 1820, việc không cho các nhà chế tạo và các trung tâm chế tác mới
hưởng quyền chính trị đã trở nên không biện hộ được. Vào ngày 16-8-1819, một
cuộc meeting để phản đối hệ thống chính trị và các chính sách của chính phủ đã
được lên kế hoạch tổ chức ở Quảng trường St. Peter, Manchester . Người tổ chức đã là Joseph
Johnson, một nhà sản xuất bàn chải địa phương và một trong những người sáng lập
tờ báo cấp tiến Manchester Observer. Các nhà tổ chức khác đã bao gồm
John Knight, nhà chế tạo bông và nhà cải cách, và John Thacker Saxton, chủ bút
của Manchester Obverver. Sáu mươi ngàn người phản đối đã
tụ tập, nhiều người đã mang các khẩu hiệu “Nói Không với Luật Ngũ cốc,” “Quyền
đi bầu Phổ quát,” và “Bỏ bằng Phiếu” (có nghĩa bỏ phiếu kín, giữ bí mật, chứ
không phải công khai như đã xảy ra năm 1819). Các nhà chức trách đã rất lo lắng
về cuộc meeting, và một lực lượng sáu trăm kỵ binh của Đoàn Kỵ binh nhẹ Thứ
mười lăm đã được tập họp. Khi các bài phát biểu bắt đầu, một thẩm phán địa
phương đã quyết định ban hành một lệnh bắt những người phát biểu. Khi cảnh sát
thử thi hành lệnh bắt, họ đã vấp phải sự chống đối của đám đông, và cuộc đánh
nhau nổ ra. Tại điểm này các kỵ binh tấn công đám đông, Trong vài phút hỗn
loạn, mười một người đã chết và có lẽ sáu trăm người đã bị thương. Tờ Manchester
Observer đã gọi nó là
Vụ Tàn sát Peterloo.
Nhưng căn cứ vào những thay đổi về các thể chế kinh tế và chính
trị, sự đàn áp dài hạn đã không là một giải pháp ở nước Anh. Vụ Tàn sát
Peterloo vẫn là một sự cố cô lập. Tiếp sau cuộc náo loạn, các thể chế chính trị
ở nước Anh đã nhường chỗ cho áp lực, và sự đe dọa gây bất ổn của tình trạng rối
ren xã hội rộng hơn rất nhiều, đặc biệt sau cách mạng 1830 ở Pháp chống lại
Charles X, người đã thử khôi phục chính thể chuyên chế đã bị Cách mạng Pháp
1789 phá hủy. Trong năm 1832 chính phủ đã thông qua Đạo luật Cải cách Thứ nhất.
Nó đã cho Birmingham, Leeds, Manchester, và Sheffield quyền bầu cử, và đã mở
rộng cơ sở bầu cử sao cho các nhà chế tạo có đại diện trong Quốc hội. Sự chuyển
đổi do hậu quả về quyền lực chính trị đã chuyển dịch chính sách theo hướng ủng
hộ các nhóm lợi ích mới được đại diện này; trong năm 1848 họ đã tìm được cách
bãi bỏ các Luật Ngũ Cốc bị căm ghét, minh họa lại lần nữa rằng sự phá hủy sáng
tạo đã có nghĩa là một sự tái phân bổ không chỉ thu nhập, mà cả quyền lực chính
trị nữa. Và một cách tự nhiên, những thay đổi về phân bổ quyền lực chính trị
theo thời gian sẽ dẫn đến một sự phân bổ lại thêm nữa về thu nhập.
Chính là bản chất bao gồm của các thể chế Anh là những cái đã cho
phép quá trình này xảy ra. Những người chịu thiệt hại và sợ sự phá hủy sáng tạo
đã không còn có khả năng để chặn nó lại.
VÌ SAO Ở NƯỚC ANH?
Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu và đã tiến những bước dài ở nước
Anh bởi vì các thể chế kinh tế bao gồm độc nhất của nó. Các thể chế này lần
lượt lại được xây dựng trên nền móng được đặt bởi các thể chế chính trị bao gồm
do Cách mạng Vinh quang gây ra. Cách mạng Vinh quang đã củng cố và hợp lý hóa
các quyền tài sản, đã cải thiện các thị trường tài chính, đã làm xói mòn các
độc quyền do nhà nước ban cho trong thương mại quốc tế, và đã dỡ bỏ các rào cản
đối với sự mở rộng công nghiệp. Cách mạng Vinh quang đã làm cho hệ thống chính
trị mở và sẵn sàng đáp lại với các nhu cầu kinh tế và những mong mỏi của xã
hội. Các thể chế kinh tế bao gồm này đã cho những người tài giỏi và có tầm
nhìn, như James Watt, cơ hội và những khuyến khích để phát triển tài nghệ và
các ý tưởng của họ và ảnh hưởng đến hệ thống theo những cách có lợi cho họ và
cho quốc gia. Một cách tự nhiên, những người này, một khi họ đã trở nên thành
công, đã có cùng những thôi thúc như bất cứ cá nhân nào khác. Họ đã muốn ngăn
chặn những người khác khỏi tham gia vào công việc kinh doanh của họ và cạnh
tranh chống lại họ và đã sợ sự phá hủy sáng tạo mà có thể loại họ ra khỏi việc
hinh doanh, như trước kia họ đã làm những người khác phá sản. Nhưng sau 1688
việc này đã trở nên khó hơn để đạt được. Trong năm 1775 Richard Arkwright đã
được cấp một bằng sáng chế bao quát mà ông hy vọng trong tương lai sẽ cho ông
một sự độc quyền trong ngành kéo sợi bông đang mở rộng nhanh chóng. Ông đã
không thể khiến các tòa án thực thi nó.
Vì sao quá trình độc nhất này đã bắt đầu ở nước Anh và vì sao trong thế
kỷ thứ mười bảy? Vì sao nước Anh đã phát triển các thể chế chính trị đa nguyên
và đã thoát khỏi các thể chế khai thác? Như chúng ta đã thấy, những diễn biến
chính trị dẫn đến Cách mạng Vinh quang được định hình bởi nhiều quá trình được
kết nối với nhau. Trung tâm đã là sự xung đột chính trị giữa chính thể chuyên
chế và các địch thủ của nó. Kết quả của sự xung đột này đã không chỉ chấm dứt
các nỗ lực để tạo ra một chính thể chuyên chế được làm mới và mạnh hơn ở nước
Anh, mà cũng đã trao quyền cho những người mong muốn thay đổi một cách cơ bản
các thể chế của xã hội. Các đối thủ của chính thể chuyên chế đã không đơn thuần
muốn xây dựng một loại khác của chính thể chuyên chế. Đấy đã không đơn thuần là
Nhà Lancaster đánh bại Nhà York trong Chiến tranh Hoa Hồng. Thay vào đó, Cách
mạng Vinh quang đã kéo theo sự nổi lên của một chế độ mới dựa trên hiến trị
[constitutional rule–sự cai trị bằng hệ thống pháp luật] và chủ nghĩa đa
nguyên.
Kết quả này đã là một hệ quả của sự trôi dạt trong các thể chế Anh
và cách chúng tương tác với các bước ngoặt. Chúng ta đã thấy ở chương trước các
thể chế phong kiến đã được tạo ra như thế nào ở Tây Âu sau sự sụp đổ của Đế chế
Tây La Mã. Chủ nghĩa phong kiến đã lan khắp phần lớn châu Âu, ở miền Tây và
miền Đông. Nhưng như chương 4 đã cho thấy, Tây và Đông Âu đã bắt đầu phân kỳ
một cách căn bản sau Cái Chết Đen. Những khác biệt nhỏ trong các thể chế chính
trị và kinh tế đã có nghĩa rằng ở Tây Âu sự cân bằng quyền lực đã dẫn đến sự
cải thiện; trong khi ở Đông Âu đã dẫn đến sự sa đọa thể chế. Nhưng đấy đã không
phải là một con đường mà sẽ nhất thiết và một cách không thể lay chuyển được
dẫn đến các thể chế bao gồm. Nhiều sự đổi hướng cốt yếu hơn còn phải được tiến
hành trên đường đi. Mặc dù Magna Carta đã thử thiết lập một số nền tảng thể chế
cơ bản cho hiến trị, nhiều phần khác của châu Âu, thậm chí Đông Âu, đã thấy
những cuộc đấu tranh tương tự với các văn kiện tương tự. Thế nhưng, sau Cái
Chết Đen, Tây Âu đã trôi xa đáng kể khỏi Đông Âu. Các văn kiện như Magna Carta
đã bắt đầu có sự ăn sâu hơn ở Tây Âu. Ở Đông Âu, chúng trở nên ít có ý nghĩa. Ở
nước Anh, ngay cả trước các cuộc xung đột của thế kỷ thứ mười bảy, chuẩn mực
được thiết lập đã là, nhà vua đã không thể thu thuế mới mà không có sự đồng ý
của Quốc hội. Cũng không kém quan trọng đã là sự trôi dạt chậm, từ từ của quyền
lực khỏi giới elite sang các công dân nói chung hơn, như được minh họa bằng thí
dụ bởi sự huy động chính trị của các cộng đồng nông thôn, được thấy ở nước Anh
với các thời khắc như Khởi nghĩa Nông dân năm 1381.
Sự trôi dạt này của các thể chế bây giờ đã tương tác với một bước
ngoặt khác do sự mở rộng ồ ạt của thương mại Đại Tây Dương gây ra. Như chúng ta
đã thấy ở chương 4, một cách quyết định mà theo đó điều này tác động đến động
học thể chế tương lai phụ thuộc vào liệu Quốc vương đã có thể hay không thể độc
quyền hóa sự buôn bán này. Tại nước Anh quyền lực lớn hơn một chút của Quốc hội
đã có nghĩa rằng các quốc vương Tudor hay Stuart đã không thể làm vậy. Tình
hình này đã tạo ra một tầng lớp mới của các nhà buôn và các nhà kinh doanh,
những người đã hùng hổ chống lại kế hoạch để tạo ra chính thể chuyên chế ở nước
Anh. Vào năm 1686 ở London, chẳng hạn, đã có 702 nhà buôn xuất khẩu sang vùng
Caribe và 1.283 nhà nhập khẩu. Sang Bắc Mỹ đã có 691 nhà buôn xuất khẩu và 626 nhập
khẩu. Họ đã thuê những người coi kho, các thủy thủ, các thuyền trưởng, các công
nhân cảng, các thư ký – tất cả họ đại thể đều chia sẻ các quyền lợi của họ. Các
cảng đầy sinh lực khác, như Bristol, Liverpool, và Portsmouth, cũng tương tự
đầy các nhà buôn. Những người mới này đã muốn và đã đòi các thể chế kinh tế
khác, và khi họ trở nên giàu có hơn qua thương mại, họ trở nên hùng mạnh hơn.
Cùng các lực đó đã hoạt động ở Pháp, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha. Nhưng ở đó các
vua đã có khả năng hơn để kiểm soát thương mại và lợi nhuận của nó. Loại nhóm
người mới mà đã biến đổi nước Anh cũng đã nổi lên ở các nước đó, nhưng họ đã
nhỏ hơn và yếu hơn một cách đáng kể.
Khi Quốc hội Dài họp và Nội Chiến nổ ra năm 1642, các nhà buôn này
đã đứng về phe Quốc hội. Trong các năm 1670 họ đã dính líu sâu vào việc hình
thành Đảng Whig, chống lại chính thể chuyên chế Stuart, và năm 1688 họ đã đóng
vai trò then chốt trong việc hạ bệ James II. Như thế sự mở rộng các cơ hội buôn
bán do châu Mỹ biếu tặng, sự tham gia đông đảo của các thương gia vào công việc
buôn bán này và sự phát triển của các thuộc địa, và các khoản tiền kếch xù mà
họ kiếm được trong quá trình này, đã lật nghiêng cán cân quyền lực trong cuộc
đấu tranh giữa nền quân chủ và những người chống chính thể chuyên chế.
Có lẽ cốt yếu nhất, sự nổi lên của, và sự trao quyền cho, các nhóm
lợi ích khác nhau – trải từ tầng lớp gentry, các nông dân thương mại mà đã nổi
lên trong thời kỳ Tudor, đến các loại khác nhau của các nhà chế tạo cho các nhà
buôn xuyên Đại Tây Dương – đã có nghĩa rằng liên minh chống chính thể chuyên
chế Sutart đã không chỉ mạnh mà cũng rộng. Liên minh này được tăng cường thậm
chí hơn nữa bởi sự hình thành Đảng Whig trong các năm 1670, mà đã cung cấp một
tổ chức để đẩy mạnh các quyền lợi của nó. Sự trao quyền cho nó đã làm trụ cột
cho chủ nghĩa đa nguyên tiếp sau Cách mạng Vinh quang. Nếu giả như tất cả những
người chiến đấu chống lại nhà Stuart đã có cùng quyền lợi và cùng bối cảnh, thì
việc lật đổ nền quân chủ Stuart chắc đã có nhiều khả năng [chỉ] là một sự tái
diễn của Nhà Lancaster đối lại Nhà York, đưa một nhóm lợi ích hẹp chọi lại một
nhóm lợi ích hẹp khác, và cuối cùng thay thế hay tái tạo cùng hay hình thức
khác của các thể chế khai thác. Một liên minh rộng có nghĩa rằng đã có những
đòi hỏi lớn hơn cho việc tạo ra các thể chế chính trị đa nguyên. Không có một
loại nào đó của chủ nghĩa đa nguyên, sẽ có một nguy cơ rằng một trong các nhóm
lợi ích khác nhau này sẽ chiếm đoạt quyền lực gây tổn hại cho phần còn lại. Sự
thực rằng Quốc hội sau 1688 đại diện cho một liên minh rộng như vậy đã là một
nhân tố quyết định trong việc khiến cho các đại biểu Quốc hội lắng nghe các
kiến nghị và khiếu nại, ngay cả khi chúng đến từ ngoài Quốc hội và thậm chí từ
những người không có quyền bỏ phiếu. Đấy đã là một nhân tố quyết định để chặn
các nỗ lực của một nhóm nhằm tạo ra một sự độc quyền gây tổn hại đến phần còn
lại, như nhóm lợi ích len đã thử trước Đạo luật Manchester.
Cách mạng Vinh quang là một sự kiện trọng đại chính xác bởi vì nó
đã được lãnh đạo bởi một liên minh rộng đã bạo dạn hơn và đã được trao quyền
hơn cho liên minh mày, mà đã tìm được cách để tạo một chế độ lập hiến với các
giới hạn ràng buộc lên quyền lực của cả nhánh hành pháp và, cũng cốt yếu ngang
thế, lên bất cứ thành viên nào của nó. Thí dụ, chính các ràng buộc hạn chế này
đã ngăn các nhà chế tác len khỏi trở nên có khả năng nghiến nát sự cạnh tranh
tiềm năng từ các nhà chế tác bông và vải fustian (bông thô pha lanh). Như thế
liên minh rộng này đã là thiết yếu để dẫn đến một Quốc hội mạnh sau 1688, nhưng
nó cũng đã có nghĩa rằng có sự kiểm soát (checks) bên trong Quốc hội chống lại
bất cứ nhóm độc nhất nào trở nên quá mạnh và lạm dụng quyền lực của nó. Nó đã
là nhân tố cốt yếu trong sự nổi lên của các thể chế chính trị đa nguyên. Sự
trao quyền cho một liên minh rộng như vậy cũng đã đóng một vai trò quan trọng
trong tính bền bỉ và sự tăng cường của các thể chế kinh tế và chính trị bao
gồm, như chúng ta sẽ thấy ở chương 11.
Thế nhưng chẳng cái nào trong các nhân tố này đã khiến cho
một chế độ đa nguyên thật sự chắc chắn xảy ra, và sự nổi lên của nó đã một phần
là hậu quả của con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử. Một liên minh mà
không quá khác đã có khả năng nổi lên như bên chiến thắng trong Nội Chiến Anh
chống lại nhà Stuart, còn liên minh tương tự đã chỉ dẫn đến chế độ độc tài của
Oliver Cromwell. Sức mạnh của liên minh này cũng đã không là cái đảm bảo rằng
chính thể chuyên chế bị đánh bại. James II đã có thể đánh bại William xứ Orange . Con đường của sự
thay đổi lớn về thể chế, như thường lệ, cũng không ít tùy thuộc ngẫu nhiên hơn
kết quả của các xung đột chính trị khác. Điều này đã là thế cho dù con đường cụ
thể của sự trôi dạt thể chế mà tạo ra liên minh rộng rãi chống lại chính thể
chuyên chế và bước ngoặt của các cơ hội thương mại Đại Tây Dương đã sắp đặt
trước các con bài chống lại nhà Stuart. Trong trường hợp này, vì thế, sự tùy
thuộc ngẫu nhiên và một liên minh rộng đã là các nhân tố quyết định làm nòng
cốt cho sự nổi lên của chủ nghĩa đa nguyên và các thể chế bao gồm.
8.KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI: CÁC RÀO
CẢN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
TRONG NĂM 1445 tại thành phố Đức Mainz , Johannes Gutenberg đã tiết lộ một đổi
mới với các hệ quả sâu sắc cho lịch sử kinh tế tiếp sau: một máy in dựa trên
con chữ động (movable type). Cho đến lúc đó, các cuốn sách hoặc được sao chép
bằng tay bởi những người chép bản thảo, hay được in mộc bản với các bản khắc gỗ
để in từng trang. Sách đã ít và thưa thớt, và rất đắt. Sau sáng chế của
Gutenberg, tình hình đã bắt đầu thay đổi. Các sách đã được in và đã trở nên dễ
kiếm hơn. Không có sáng chế này, sự biết đọc biết viết hàng loạt và giáo dục
quần chúng đã là không thể.
Ở Tây Âu tầm quan trọng của máy in đã được nhận ra mau chóng.
Trong năm 1460 đã có máy in rồi ngang biên giới, ở Strasbourg , Pháp. Vào cuối các năm 1460 công
nghệ đã lan ra khắp Italy, với các máy in ở Rome và Venice, không lâu sau ở
Florence, Milan, và Turin. Vào năm 1476 William Caxton đã lắp đặt một máy in ở London , và hai năm sau đã có một máy ở Oxford . Trong cùng thời kỳ, nghành in đã lan
khắp các Nước Thấp (Luxemburg, Bỉ, Hà Lan) sang Tây Ban Nha, và thậm chí sang
Đông Âu, với một máy in mở ở Budapest năm 1473
và ở Cracow một
năm sau.
Không phải tất cả mọi người đều thấy việc in như một đổi mới đáng
mong muốn. Ngay từ 1485, Sultan Ottoman Bayezid II đã ban một chỉ dụ rằng những
người Muslim bị tuyệt đối cấm in bằng tiếng Arab. Quy tắc này còn được thực thi
thêm nữa bởi Sultan Selim I trong năm 1515. Đã chỉ đến 1727 thì máy in đầu tiên
mới được phép trên đất Ottoman. Sultan khi đó Ahmed III đã ban hành một sắc
lệnh cấp phép cho Ibrahim Müteferrika để lắp đặt một máy in. Ngay cả bước đi
muộn màng này đã bị bao vây bởi các ràng buộc hạn chế. Mặc dù sắc lệnh đã lưu
ý, “ngày may mắn kỹ thuật này của phương Tây sẽ được bỏ mạng che mặt giống một
cô dâu và sẽ không bị che dấu nữa,” máy in của Müteferrika đã bị giám sát chặt
chẽ. Sắc lệnh nói rõ:
để cho các sách không in các lỗi, các học giả tôn giáo thông minh,
được tôn trọng và xứng đáng, chuyên môn hóa về luật Islamic, pháp quan xuất sắc
của Instanbul, Mevlana Ishak, và pháp quan của Seleniki, Mevlana Sahib, và pháp
quan của Galata, Mevlana Asad, cầu mong cho công trạng của họ được tăng lên, và
từ các trật tự tôn giáo vinh quang, rường cột của các học giả tôn giáo ngay
thẳng, Đạo trưởng (Sheykh) của Kasim Paşa Mevlevihane, Mevlana Musa, cầu mong
cho sự sáng suốt và hiểu biết của ngài được tăng lên, sẽ giám sát việc đọc bản
in thử.
Müteferrika đã được phép lắp đặt một máy in, nhưng bất cứ thứ gì
ông in đều phải được hiệu đính bởi một ban gồm ba học giả tôn giáo và pháp lý,
các pháp quan. Có thể sự khôn ngoan và hiểu biết của các pháp quan, giống như
của bất cứ ai khác, đã có thể tăng nhanh hơn nhiều giả như máy in đã sẵn có để
dùng dễ dàng hơn. Nhưng đã không phải thế, ngay cả sau khi Müteferrika đã được
phép để lắp đặt máy in của ông.
Không ngạc nhiên Müteferrika cuối cùng đã in ít sách, chỉ mười bảy
cuốn giữa năm 1729, khi máy in bắt đầu hoạt động, và 1743, khi ông ngừng làm
việc. Gia đình ông đã thử tiếp tục truyền thống, nhưng họ đã xoay xở để in chỉ
được bảy cuốn sách nữa cho đến lúc cuối cùng họ đã phải bỏ cuộc vào năm 1797.
Bên ngoài lõi của Đế chế Ottoman, ngoài Thổ Nhĩ Kỳ, ngành in còn đã tụt hậu xa
hơn. Thí dụ, ở Ai Cập, máy in đầu tiên được lắp đặt chỉ trong năm 1798, bởi
những người Pháp những người đã là phần của sự cố gắng bởi Napoleon Bonaparte
để chiếm nước này. Cho đến mãi quá nửa thứ hai của thế kỷ thứ mười chín, sản
xuất sách ở Đế chế Ottoman vẫn chủ yếu do những người chép sách thực hiện sao
chép bằng tay các sách đã có. Vào đầu thế kỷ thứ mười tám, được cho là đã có
tám mươi ngàn người chép tay như vậy hoạt động ở Istanbul.
Sự chống đối này đối với máy in đã có các hệ quả hiển nhiên cho sự
biết đọc biết viết, giáo dục, và thành công kinh tế. Trong năm 1800 đã có lẽ
chỉ 2 đến 3 phần trăm công dân của Đế chế Ottoman biết đọc biết viết, so với 60
phần trăm của đàn ông và 40 phần trăm cho đàn bà ở Anh. Tại Hà Lan và Đức, tỷ
lệ biết đọc biết viết còn cao hơn. Các vùng Ottoman đã tụt hậu rất xa ở đằng
sau các nước Âu châu đạt mức giáo dục thấp nhất, như Bồ Đào Nha, nơi chỉ có
khoảng 20 phần trăm người lớn biết đọc biết viết.
Căn cứ vào các thể chế Ottoman hết sức chuyên chế và khai thác, sự
thù nghịch của sultan đối với máy in là dễ hiểu. Sách truyền bá các ý tưởng và
làm cho rất khó để kiểm soát dân cư. Một số trong các ý tưởng này có thể là
những cách mới có giá trị để làm tăng sự tăng trưởng kinh tế, nhưng các ý tưởng
khác có thể có tính chất lật đổ và thách thức hiện trạng chính trị và xã hội.
Sách cũng làm xói mòn quyền lực của những người kiểm soát sự hiểu biết bằng lời
nói, vì chúng làm cho tri thức đó sẵn có dễ dàng hơn cho bất cứ ai biết đọc.
Việc này đã đe dọa làm xói mòn hiện trạng, nơi tri thức được kiểm soát bởi các
elite. Các sultan Ottoman và giới quyền uy tôn giáo đã sợ sự phá hủy sáng tạo
mà có thể xảy ra do sách. Giải pháp của họ đã là cấm in.
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP đã tạo ra một bước ngoặt mà đã tác động đến
hầu như mọi nước. Một số quốc gia, như Anh, không chỉ đã cho phép, mà đã khuyến
khích một cách tích cực thương mại, công nghiệp hóa, và tinh thần kinh doanh
khởi nghiệp, và đã phát triển nhanh. Nhiều quốc gia, như Đế chế Ottoman, Trung
Quốc, và các chế độ chuyên chế khác, đã tụt lại phía sau vì họ đã ngăn chặn,
hoặc nói nhẹ đi đã chẳng làm gì để khuyến khích sự mở rộng công nghiệp. Các thể
chế chính trị và kinh tế đã định hình các phản ứng đối với đổi mới công nghệ,
một lần nữa tạo ra hình mẫu quen thuộc về sự tương tác giữa các thể chế hiện
tồn và các bước ngoặt dẫn đến sự phân kỳ về các thể chế và kết quả kinh tế.
Đế chế Ottoman đã vẫn là chuyên chế cho đến khi nó sụp đổ vào cuối
Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, và như thế nó đã có khả năng chống đối một
cách thành công hay cản trở các đổi mới như máy in và sự phá hủy sáng tạo mà sự
đổi mới đã có thể gây ra. Lý do của việc những thay đổi kinh tế đã xảy ra tại
Anh lại đã không xảy ra trong Đế chế Ottoman, là mối quan hệ tự nhiên giữa các
thể chế chính trị chuyên chế khai thác và các thể chế kinh tế khai thác. Chính
thể chuyên chế là sự cai trị không bị ràng buộc bởi luật hay nguyện vọng của
những người khác, mặc dù trên thực tế các nhà chuyên chế cai trị với sự với sự
ủng hộ của một nhóm nhỏ nào đó hay elite. Tại nước Nga thế kỷ thứ mười chín,
chẳng hạn, các sa hoàng đã là các nhà cai trị chuyên chế được ủng hộ bởi một
giới quý tộc đại diện cho khoảng 1 phần trăm toàn bộ dân cư. Nhóm hẹp này đã tổ
chức các thể chế chính trị để làm cho họ vĩnh viễn giữ được quyền lực. Đã không
có Quốc hội hay sự đại diện chính trị nào của các nhóm khác ở nước Nga cho đến
1905, khi sa hoàng lập ra Duma, mặc dù ông đã nhanh chóng làm xói mòn một vài
quyền hạn mà ông đã ban cho nó. Không ngạc nhiên, các thể chế kinh tế đã là
khai thác, được tổ chức để làm cho sa hoàng và giới quý tộc càng giàu càng tốt.
Cơ sở của hệ thống này, như của nhiều hệ thống kinh tế khai thác, đã là một hệ
thống cưỡng bức và kiểm soát lao động đông đảo, dưới hình thức đặc biệt tàn ác
của chế độ nông nô Nga.
Chính thể chuyên chế đã không là loại duy nhất của thể chế chính
trị ngăn cản công nghiệp hóa. Mặc dù các chế độ chuyên chế đã không là đa
nguyên và đã sợ sự phá hủy sáng tạo, nhiều chế độ đã có các nhà nước tập trung,
hay chí ít các nhà nước đủ tập trung để áp đặt những sự cấm đoán đối với các
đổi mới, như cấm máy in. Ngay cả ngày nay, các nước như Afghanistan, Haiti, và
Nepal có các nhà nước quốc gia mà thiếu sự tập trung chính trị. Ở châu Phi
hạ-Sahara tình hình còn tồi tệ hơn. Như chúng ta đã lập luận trước đây, không
có một nhà nước tập trung để mang lại trật tự và thực thi các quy tắc và các
quyền tài sản, các thể chế bao gồm không thể nổi lên. Chúng ta sẽ thấy trong
chương này rằng trong nhiều phần của châu Phi hạ-Sahara (thí dụ Somalia và nam
Sudan) một rào cản chính đối với công nghiệp hóa đã là sự thiếu bất cứ hình
thức nào của sự tập trung hóa chính trị. Không có những điều kiện tiên quyết tự
nhiên này, công nghiệp hóa không có cơ hội nào để cất cánh.
Chính thể chuyên chế và sự thiếu tập trung chính trị hay sự tập
trung chính trị yếu là hai rào cản đối với sự mở rộng công nghiệp. Nhưng chúng
cũng liên hệ với nhau; cả hai được giữ tại vị trí bởi nỗi sợ phá hủy sáng tạo
và bởi vì quá trình tập trung hóa chính trị thường tạo ra chính thể chuyên chế.
Sự kháng cự đối với sự tập trung hóa chính trị được thúc đẩy bởi các lý do
giống như sự kháng cự đối với các thể chế chính trị bao gồm: sợ mất quyền lực
chính trị, lần này, cho nhà nước tập trung mới và những người kiểm soát nó.
Chúng ta đã thấy ở chương trước, quá trình tập trung hóa chính trị dưới thời
Tudor ở nước Anh đã làm tăng thế nào các đòi hỏi cho tiếng nói và sự đại diện
bởi các giới elite địa phương khác nhau trong các thể chế chính trị quốc gia
như một cách để ngăn chặn sự mất quyền lực chính trị này. Một Quốc hội mạnh hơn
đã được tạo ra, cuối cùng đã làm cho sự nổi lên của các thể chế chính trị bao
gồm là có thể.
Nhưng trong nhiều trường hợp khác, đúng là điều ngược lại xảy ra,
và quá trình tập trung hóa chính trị cũng mở ra một thời đại của chính thể
chuyên chế lớn hơn. Điều này được minh họa bởi các nguồn gốc của chính thể
chuyên chế Nga, mà đã được Peter Đại Đế tạo dựng giữa 1682 và năm ông mất 1725.
Peter đã xây dựng một thủ đô mới ở Saint Peterburg, tước đoạt quyền lực từ giới
quý tộc cũ, nhà Boyar, để tạo ra một nhà nước quan liêu hiện đại và quân đội
hiện đại. Ông thậm chí đã giải tán Duma Boyar mà đã biến ông thành sa hoàng.
Peter đã đưa ra Bảng Cấp bậc, một hệ thống thứ bậc xã hội hoàn toàn mới mà bản
chất của nó đã là phục vụ sa hoàng. Ông cũng đã nắm quyền kiểm soát Giáo hội,
hệt như Henry VIII đã làm khi tập trung hóa nhà nước ở Anh. Với quá trình này
của tập trung hóa chính trị, Peter đã lấy đi quyền lực từ những người khác và
chuyển hướng nó về cho chính mình. Các cuộc cải cách quân sự của ông đã khiến
cho đội quân hoàng gia truyền thống, Streltsy, thành quân phiến loạn. Cuộc nổi
loạn của họ được tiếp nối bởi các cuộc khác, như những người Bashkir ở Trung Á
và cuộc Nổi loạn Bulavin. Chẳng cuộc nào thành công.
Mặc dù dự án tập trung hóa chính trị của Peter Đại Đế đã thành
công và đã thắng phe đối lập, các loại lực lượng mà đã phản đối sự tập trung
hóa nhà nước, như Streltsy, những người thấy quyền lực của họ bị thách thức, đã
chiến thắng ở nhiều phần của thế giới, và sự thiếu tập trung hóa nhà nước do nó
gây ra đã có nghĩa là sự tồn tại dai dẳng của một loại khác của các thể chế
khai thác.
Trong chương này, chúng ta sẽ thấy trong bước ngoặt do Cách mạng
Công nghiệp tạo ra, nhiều quốc gia đã lỡ chuyến tàu thế nào và đã không tận
dụng được sự mở rộng công nghiệp ra sao. Hoặc họ đã có các thể chế chính trị
chuyên chế và các thể chế kinh tế khai thác, như ở Đế chế Ottoman, hay họ đã
thiếu sự tập trung hóa chính trị, như ở Somalia.
MỘT SỰ KHÁC BIỆT NHỎ MÀ LÀ QUAN TRỌNG
Chính thể chuyên chế đã sụp đổ ở nước Anh trong thế kỷ thứ mười
bảy nhưng đã trở nên mạnh hơn ở Tây Ban Nha. Cái tương đương ở Tây Ban Nha với
Quốc hội Anh, là Cortes, đã chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Tây Ban Nha được tạo
dựng trong năm 1492 với sự sáp nhập của các vương quốc Castile và Aragon, thông
qua hôn nhân của Nữ hoàng Isabella và Vua Ferdinand. Thời điểm đó đã trùng với
sự kết thúc của cuộc Chinh phục lại, một quá trình dài để đuổi những người Arab
những người đã chiếm đóng miền nam Tây Ban Nha, và đã xây dựng các thành phố
lớn Granada, Cordova, và Serville, từ thế kỷ thứ tám. Nhà nước Arab cuối cùng
trên Bán đảo Iberian, Granada, đã rơi vào tay Tây Ban Nha vào cùng thời gian
Christopher Columbus đến châu Mỹ và bắt đầu đòi các vùng đất này cho Nữ hoàng
Isabella và Vua Ferdinand, những người đã tài trợ chuyến đi của ông.
Sự sáp nhập các quốc vương Castile và Aragon và các cuộc hôn nhân
và sự thừa kế vương triều tiếp sau đã tạo ra một siêu nhà nước Âu châu.
Isabella chết năm 1504, con gái bà Joanna được phong làm nữ hoàng Castile.
Joanna đã kết hôn với Philip của Nhà Habsburg, con trai của hoàng đế Maximilian
I của Đế chế La Mã Thần thánh. Trong năm 1516, Charles con trai của Joanna và
Philip, được tôn lên làm vua Charles I của Castile và Aragon. Khi cha ông chết,
Charles thừa kế Hà Lan và Franche-Comté [một vùng gồm 4 tỉnh phía đông nước
Pháp], mà ông thêm vào các vùng lãnh thổ của mình ở Iberia và châu Mỹ. Trong
năm 1519, khi Maximilian I chết, Charles cũng thừa kế các lãnh thổ Hubsburg ở
Đức và trở thành Hoàng đế Charles V của Đế chế La Mã Thần thánh. Cái đã là một
sự sáp nhập của hai vương quốc Tây Ban Nha, đã trở thành một đế chế đa đại lục,
và Charles đã tiếp tục dự án tăng cường nhà nước chuyên chế mà Isabella và
Ferdinand đã khởi động.
Nỗ lực để xây dựng và củng cố chính thể chuyên chế ở Tây Ban Nha
được sự giúp đỡ khổng lồ bởi việc phát hiện ra các kim loại quý ở châu Mỹ. Bạc
đã được phát hiện ra rồi với số lượng lớn tại Guanajuato, ở Mexico, vào các năm
1520, và không lâu sau ở Zacatecas, Mexico. Việc chinh phục Peru sau 1532 thậm
chí đã tạo ra nhiều của cải hơn cho nền quân chủ. Khoản này đến dưới dạng một
khoản chia phần, “một phần năm thuộc nhà vua”, trong mọi của cướp bóc được từ
sự chinh phục và cả từ các mỏ. Như chúng ta đã thấy ở chương 1, một núi bạc đã
được phát hiện ở Potosí vào các năm 1540, đổ nhiều của cải hơn vào kho bạc của
nhà vua Tây Ban Nha.
Vào thời gian sáp nhập Castile và Aragon, Tây Ban Nha đã là giữa
các phần thành công nhất về mặt kinh tế của châu Âu. Sau khi hệ thống chính trị
chuyên chế của nó đã được củng cố, nó đã bước vào sa sút tương đối và sau đó,
sau năm 1600, vào sự sa sút tuyệt đối. Hầu như hành động đầu tiên của Isabella và
Ferdinand sau Tái Chinh phục đã là tước đoạt những người Do Thái. Khoảng hai
trăm ngàn người Do Thái ở Tây Ban Nha đã được cho bốn tháng để rời đi. Họ đã
phải bán tống bán tháo đất và các tài sản của họ với giá rẻ mạt và đã không
được phép mang một chút vàng hay bạc nào ra khỏi nước. Một thảm họa con người
tương tự đã được tiến hành chỉ hơn một trăm năm sau. Giữa 1609 và 1614, Philip
III đã trục xuất những người Morisco, các hậu duệ của các công dân của các nhà
nước Arab trước kia ở miền nam Tây Ban Nha. Hệt như với những người Do Thái,
những người Morisco đã phải ra đi với cái gì họ đã có thể mang và đã không được
phép mang bất cứ lượng vàng, bạc hay kim loại quý nào theo mình.
Các quyền tài sản đã không an toàn theo các chiều kích khác dưới
sự cai trị Habsburg ở Tây Ban Nha. Philip II, người nối ngôi cha mình, Charles
V, vào năm 1556, đã không trả được các khoản nợ của mình trong năm 1557, và lần
nữa trong năm 1560, đã làm phá sản các gia đình Fugger và Welser kinh doanh
ngân hàng. Vai trò của các gia đình Đức kinh doanh ngân hàng sau đó được đảm
nhiệm bởi các gia đình người xứ Genoese kinh doanh ngân hàng, những người đến
lượt lại bị làm cho phá sản bởi những sự vỡ nợ Tây Ban Nha dưới triều đại của
họ Habsburg trong các năm 1575, 1596, 1607, 1627, 1647, 1652, 1660, và 1662.
Cũng cốt yếu đúng như sự bất ổn định của các quyền tài sản ở Tây
Ban Nha chuyên chế đã là tác động của chính thể chuyên chế lên các thể chế kinh
tế của thương mại và sự phát triển của đế chế thuộc địa Tây Ban Nha. Như chúng
ta đã thấy ở chương trước, thành công kinh tế của nước Anh đã dựa trên sự mở
rộng buôn bán nhanh chóng. Mặc dù, so với Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nước Anh
đã là người đến sau với thương mại Đại Tây Dương, nó đã cho phép sự tham gia có
cơ sở tương đối rộng vào buôn bán và các cơ hội thuộc địa. Cái đã nhồi đầy kho
bạc của Quốc vương ở Tây Ban Nha đã làm giàu cho tầng lớp nhà buôn mới nổi ở
nước Anh. Chính tầng lớp nhà buôn này đã tạo thành cơ sở của tính năng động
kinh tế của nước Anh lúc ban đầu và đã trở thành bức tường thành của liên minh
chính trị chống chuyên chế.
Ở Tây Ban Nha các quá trình này, mà đã dẫn đến tiến bộ kinh tế và
thay đổi thể chế, đã không diễn ra. Sau khi châu Mỹ được khám phá ra, Isabella
và Ferdinand đã tổ chức thương mại giữa các thuộc địa mới của họ và Tây Ban Nha
thông qua một phường hội của các nhà buôn ở Serville. Cơ sở hẹp, được độc quyền
buôn bán này đã có nghĩa rằng không có tầng lớp rộng nào của các nhà buôn đã có
thể nổi lên qua các cơ hội buôn bán với các thuộc địa. Ngay cả thương mại ở bên
trong châu Mỹ cũng đã bị điều tiết một cách nặng nề. Thí dụ, một nhà buôn ở một
thuộc địa như Tây Ban Nha Mới, đại thể là Mexico hiện đại, đã không thể buôn
bán trực tiếp với bất cứ ai ở Grenada Mới, Colombia hiện đại. Những hạn chế này
lên thương mại ở bên trong Đế chế Tây Ban Nha đã làm giảm sự thịnh vượng kinh
tế của nó và, một cách gián tiếp, đã làm giảm các ích lợi tiềm tàng mà Tây Ban
Nha đã có thể có được qua buôn bán với đế chế khác, thịnh vượng hơn. Tuy nhiên,
chúng [các thể chế] đã là khai thác bởi vì chúng đã đảm bảo rằng bạc và vàng
tiếp tục chảy về Tây Ban Nha.
Các thể chế kinh tế khai thác của Tây Ban Nha đã là kết quả trực
tiếp của sự xây dựng chính thể chuyên chế và con đường khác, so với nước Anh,
mà các thể chế chính trị đã đi. Cả Vương quốc Castile lẫn Vương quốc Aragon đã
đều có Cortes của mình, một quốc hội đại diện cho các nhóm khác nhau, hay các
“estaste-đẳng cấp” khác nhau, của vương quốc. Như với Quốc hội Anh, Cortes xứ
Castile phải được triệu tập để chuẩn y các loại thuế mới. Tuy nhiên, Cortes ở
Castile và Aragon chủ yếu đã đại diện cho các thành phố lớn, hơn là các vùng cả
đô thị lẫn nông thôn, như Quốc hội Anh đã đại diện. Vào thế kỷ thứ mười lăm, nó
đã đại diện chỉ cho mười tám thành phố, mỗi thành phố cử hai đại biểu. Hệ quả là,
Cortes đã không đại diện cho một tập hợp của các nhóm rộng như Quốc hội Anh đã
đại diện, và nó đã chẳng bao giờ phát triển như một mối liên hệ của các nhóm
lợi ích đa dạng ganh đua để đặt các ràng buộc hạn chế lên chính thể chuyên chế.
Nó đã không thể làm luật, và thậm chí phạm vi của các quyền hạn của nó liên
quan đến đánh thuế đã bị hạn chế. Tất cả điều này đã làm cho dễ hơn đối với nền
quân chủ Tây Ban Nha để cho Cortes ra ngoài lề trong quá trình củng cố chính
thể chuyên chế riêng của nó. Ngay cả với số bạc đến từ châu Mỹ, Charles V và
Philip II đã đòi hỏi thu nhập thuế ngày càng tăng để chi cho một loạt các cuộc
chiến tranh tốn kém. Trong năm 1520 Charles V đã quyết định để trình ra Cortes
đòi hỏi tăng thuế. Các elite thành thị đã tận dụng thời điểm để đòi sự thay đổi
rộng hơn trong Cortes và quyền hạn của nó. Sự chống đối này đã trở nên mãnh
liệt và mau chóng trở thành cái được biết đến như cuộc Nổi loạn Comunero.
Charles đã có khả năng dẹp tan cuộc nổi loạn với quân lính hoàng gia. Suốt phần
còn lại của thế kỷ thứ mười sáu, tuy vậy, đã có một cuộc chiến đấu liên tục vì
Quốc vương đã thử cố giành cho được từ Cortes các quyền để thu các loại thuế
mới và tăng các loại thuế cũ mà nó đã có quyền. Mặc dù cuộc chiến đấu này đã
lúc lên lúc xuống, cuối cùng phần thắng đã thuộc về nền quân chủ. Sau 1664,
Cortes đã không họp nữa cho đến khi nó được tổ chức lại trong các cuộc xâm lấn
của Napoleon gần 150 năm sau.
Ở nước Anh sự thất bại của chính thể chuyên chế đã dẫn không chỉ
đến các thể chế chính trị đa nguyên mà cũng đến sự phát triển thêm nữa của một
nhà nước tập trung hiệu quả hơn nhiều. Ở Tây Ban Nha điều ngược lại đã xảy ra
khi chính thể chuyên chế thắng lợi. Mặc dù nền quân chủ đã hoạn Cortes và đã dỡ
bỏ bất cứ ràng buộc hạn chế nào lên ứng xử của nó, nó đã ngày càng trở nên khó
để thu thuế, ngay cả khi nó đã thử bằng thương lượng trực tiếp với các thành
phố. Trong khi nhà nước Anh đã tạo ra một bộ máy thuế vụ hiện đại và hiệu quả,
nhà nước Tây Ban Nha đã lại di chuyển theo hướng ngược lại. Nền quân chủ đã không
chỉ thất bại để tạo ra các quyền tài sản an toàn cho các doanh nhân khởi nghiệp
và đã độc quyền hóa thương mại, mà nó cũng đã bán các chức vụ, thường biến
chúng thành các chức cha truyền con nối, ham mê sự thầu thuế, và thậm chí bán
sự được miễn xét xử.
Các hệ quả của các thể chế chính trị và kinh tế khai thác này ở
Tây Ban Nha đã có thể tiên đoán được. Trong thế kỷ thứ mười bảy, trong khi nước
Anh đang di chuyển theo hướng tăng trưởng thương mại và sau đó công nghiệp hóa
nhanh chóng, thì Tây Ban Nha sa theo hướng suy thoái kinh tế lan rộng. Vào đầu
thế kỷ, một trong năm người Tây Ban Nha đã sống ở các vùng đô thị. Vào cuối thế
kỷ, con số này đã giảm đi một nửa xuống còn một trong mười người, trong một quá
trình mà tương ứng với sự ngày càng nghèo đi của dân cư Tây Ban Nha. Thu nhập
Tây Ban Nha đã giảm sút, trong khi nước Anh dần trở nên giàu có.
Sự tồn tại dai dẳng của chính thể chuyên chế ở Tây Ban Nha, trong
khi nó bị trốc tận rễ ở nước Anh, là một thí dụ nữa về những khác biệt nhỏ là
có ý nghĩa trong các bước ngoặt. Những sự khác biệt nhỏ đã là về sức mạnh và
bản chất của các thể chế đại diện; bước ngoặt đã là sự khám phá ra châu Mỹ. Sự
tương tác của những thứ này đã đưa Tây Ban Nha lên một con đường thể chế rất
khác với nước Anh. Các thể chế kinh tế tương đối bao gồm mà đã nảy sinh ở nước
Anh đã tạo ra tính năng động kinh tế chưa từng thấy, lên đỉnh điểm trong Cách
mạng Công nghiệp, trong khi công nghiệp hóa đã không có cơ hội nào ở Tây Ban
Nha. Vào lúc công nghệ công nghiệp đã lan ra nhiều phần của thế giới, nền kinh
tế Tây Ban Nha đã suy sụp nhiều đến mức thậm chí đã không có nhu cầu đối với
Quốc vương hay các elite chủ sở hữu đất ở Tây Ban Nha để ngăn chặn công nghiệp
hóa.
SỢ CÔNG NGHIỆP
Không có những thay đổi về các thể chế chính trị và quyền lực
chính trị tương tự như những thay đổi đã nổi lên ở Anh sau 1688, thì đã có ít
cơ hội cho các nước chuyên chế để hưởng lợi từ những đổi mới và những công nghệ
mới của Cách mạng Công nghiệp. Ở Tây Ban Nha, chẳng hạn, sự thiếu các quyền tài
sản an toàn và sự sa sút kinh tế phổ biến đã có nghĩa rằng người dân đơn giản
đã không có khuyến khích để tiến hành các khoản đầu tư và những sự hy sinh cần
thiết. Ở Nga và Áo-Hungary, đã không đơn giản là sự sao lãng và sự quản lý tồi
của các elite và sự trượt kinh tế quỷ quyệt vào dưới các thể chế khai thác là
những cái đã cản trở công nghiệp hóa; thay vào đó, các nhà cai trị đã tích cực
ngăn chặn bất cứ nỗ lực nào để đưa các công nghệ này và các khoản đầu tư cơ bản
vào cơ sở hạ tầng như đường sắt mà đã có thể hoạt động như các máng dẫn của
chúng.
Vào thời gian của Cách mạng Công nghiệp, trong thế kỷ thứ mười tám
và đầu thế kỷ thứ mười chín, bản đồ chính trị của châu Âu đã rất khác với bản
đồ chính trị hiện nay. Đế chế La Mã Thần thánh, một chiếc chăn chắp vá của hơn
bốn trăm chính thể, mà đa số chúng cuối cùng sẽ hợp lại thành nước Đức, đã
chiếm hầu hết Trung Âu. Triều đại Habsgurg đã vẫn là một lực lượng chính trị
chủ yếu, và đế chế của nó, được biết đến như nhà Habsburg hay Đế chế
Áo-Hungary, đã trải ra trên một vùng mênh mông khoảng 250.000 dặm vuông, cho dù
nó không còn bao gồm Tây Ban Nha, sau khi nhà Bourbon đã tiếp quản ngai vàng
Tây Ban Nha trong năm 1700. Về mặt dân số nó đã là nhà nước lớn thứ ba ở châu
Âu và đã chiếm một phần bảy dân số châu Âu. Vào cuối thế kỷ thứ mười tám đất
đai Habsburg đã bao gồm, ở phía tây, phần ngày nay là Bỉ, khi đó là Hà Lan
thuộc Áo. Phần lớn nhất, tuy vậy, đã là khối đất đai liên tục xung quanh Áo và
Hungary, bao gồm Cộng hòa Czech, Slovakia về phía bắc, Slovenia, Croatia, và
phần lớn Italia và Serbia ở phía nam. Về phía đông nó đã bao gồm phần lớn của
Rumani và Ba Lan ngày nay.
Các nhà buôn ở các lãnh thổ Habsburg đã ít quan trọng hơn nhiều so
với ở Anh, và chế độ nông nô đã chiếm ưu thế tại các vùng đất ở Đông Âu. Như
chúng ta đã thấy ở chương 4, Ba Lan và Hungary đã ở trung tâm của Chế độ
Nông nô thứ Hai của Đông Âu. Nhà Habsburg, không giống nhà Stuart, đã thành
công duy trì sự cai trị chuyên chế mạnh. Francis I, người đã cai trị với tư
cách hoàng đế cuối cùng của Đế chế La Mã Thần thánh, giữa 1792 và 1806, và sau
đó hoàng đế Áo-Hungary cho đến khi ông chết năm 1835, đã là một nhà chuyên chế
tột bực. Ông đã không công nhận bất cứ hạn chế nào về quyền lực của mình và,
trên hết, ông đã muốn duy trì hiện trạng chính trị. Chiến lược cơ bản của ông
đã là chống đối sự thay đổi, bất cứ loại thay đổi nào. Trong năm 1821 ông đã
làm rõ điều này trong một bài phát biểu đặc trưng cho các nhà cai trị Habsburg,
được trình bày cho các giáo viên tại một trường học ở Laibach, khẳng định, “ta
không cần những người hầu, mà cần các công dân tốt, trung thực. Nhiệm vụ của
các vị là dạy dỗ những người trẻ thành các công dân như vậy. Ai phục vụ ta phải
dạy cái ta ra lệnh cho. Nếu bất cứ ai không thể làm được điều này, hay đến với
những ý tưởng mới, người đó có thể đi, hoặc ta sẽ đuổi.”
Nữ hoàng Maria Theresa, người đã trị vì giữa 1740 và 1780, đã
thường xuyên trả lời cho các gợi ý về làm thế nào để cải thiện hay thay đổi các
thể chế bằng lời nhận xét, “Hãy để mọi thứ như nó là.” Tuy nhiên, bà và con
trai bà Joseph II, người đã là hoàng đế giữa 1780 và 1790, đã chịu trách nhiệm
về một nỗ lực để xây dựng một nhà nước tập trung hùng mạnh hơn và một hệ thống
hành chính hiệu quả hơn. Thế nhưng họ đã làm việc này trong bối cảnh của một hệ
thống chính trị với không ràng buộc hạn chế nào lên các hành động của họ và với
ít yếu tố của chủ nghĩa đa nguyên. Đã không có quốc hội toàn quốc mà có thể đưa
ra ngay chỉ một chút kiểm soát lên quốc vương, chỉ có một hệ thống của các đẳng
cấp và các nghị viện địa phương, mà về mặt lịch sử đã có những quyền hạn nào đó
liên quan đến đánh thuế và tuyển mộ lính. Thậm chí đã có ít sự kiểm soát hơn
lên cái nhà Habsburg Áo-Hungary có thể làm so với các quốc vương Tây Ban Nha,
và quyền lực chính trị đã được tập trung hẹp.
Khi chính thể chuyên chế Habsburg được tăng cường trong thế kỷ thứ
mười tám, sức mạnh của tất cả các thể chế không-quân chủ đã bị yếu thêm. Khi
một phái đoàn công dân từ tỉnh Tyrol ở Áo đưa
kiến nghị lên Francis cho một hiến pháp, ông đã trả lời, “Được, các ngươi muốn
có một hiến pháp! … Xem này, ta không ngại cái đó. Ta sẽ cho các ngươi một hiến
pháp nhưng các ngươi phải biết rằng binh sĩ vâng lời ta, và ta sẽ không bảo các
ngươi hai lần nếu ta cần tiền … Trong mọi trường hợp ta khuyên các ngươi nên
thận trọng với cái các ngươi sắp nói.” Căn cứ vào câu trả lời này, các nhà lãnh
đạo Tyrol đã trả lời, “Nếu bệ hạ nghĩ như vậy,
thì tốt hơn là không có hiến pháp nào cả,” mà Francis đáp lại, “Đó cũng là ý
của ta.”
Francis đã giải tán Hội đồng Nhà nước mà Maria Theresa đã sử dụng
như một diễn đàn cho việc tham vấn với các bộ trưởng của bà. Từ đó trở đi đã
không có sự tham vấn nào hay sự thảo luận nào về các quyết định của Quốc vương.
Francis đã tạo ra một nhà nước cảnh sát và đã kiểm duyệt một cách tàn nhẫn bất
cứ thứ gì mà đã có thể được coi như cấp tiến ôn hòa. Triết lý của ông về cai
trị đã được mô tả đặc trưng bởi Bá tước Hartig, một phụ tá lâu đời của ông, như
“sự duy trì không giảm sút quyền của quốc vương, và từ chối mọi đòi hỏi từ phía
nhân dân cho một sự tham gia vào quyền đó.” Ông đã được giúp đỡ trong tất cả
chuyện này bởi Hoàng thân von Metternich, được chỉ định làm bộ trưởng ngoại
giao trong năm 1809. Quyền lực và ảnh hưởng của Metternich thực sự tồn tại lâu
hơn quyền lực và ảnh hưởng của Francis, và ông vẫn đã là bộ trưởng ngoại giao
gần bốn mươi năm.
Đứng ở trung tâm của các thể chế kinh tế Habsburg đã là trật tự
phong kiến và chế độ nông nô. Khi di chuyển sang phía đông bên trong đế chế,
chủ nghĩa phong kiến trở nên mãnh liệt hơn, một sự phản ánh về độ dốc phổ biến
hơn trong các thể chế kinh tế chúng ta đã thấy ở chương 4, khi di chuyển từ Tây
sang Đông Âu. Tính linh động lao động đã hết sức hạn chế, và sự di cư đã là bất
hợp pháp. Khi nhà từ thiện Anh Robert Owen thử thuyết phục chính phủ Áo để chấp
nhận những cải cách xã hội nào đó nhằm cải thiện hoàn cảnh của những người
nghèo, một trong các trợ lý của Metternich, Friedrich von Gentz, đã trả lời,
“Chúng tôi không hề mong muốn rằng các đám đông to lớn sẽ trở nên khá giả và
độc lập … Khác đi thì làm sao chúng tôi có thể cai trị họ?”
Thêm vào chế độ nông nô, mà đã ngăn chặn hoàn toàn sự nổi lên của
một thị trường lao động và xóa bỏ các khuyến khích hay các sáng kiến kinh tế từ
quần chúng dân cư nông thôn, chính thể chuyên chế Habsburg đã phát đạt nhờ các
độc quyền và những hạn chế khác về thương mại. Nền kinh tế đô thị bị áp đảo bởi
các phường hội, mà đã hạn chế sự tham gia vào các nghề. Cho đến 1775 đã có thuế
quan nội địa bên trong bản thân nước Áo, và ở Hungary cho đến năm 1784. Thuế
quan đã rất cao đối với hàng hóa nhập khẩu, với nhiều lệnh cấm rành mạch về các
hàng hóa nhập và xuất khẩu.
Sự kiềm chế các thị trường và sự tạo ra các thể chế kinh tế khai
thác tất nhiên là đặc trưng hoàn toàn của chính thể chuyên chế, nhưng Francis
đã đi xa hơn. Đã không đơn giản là các thể chế kinh tế khai thác đã xóa bỏ các
khuyến khích cho các cá nhân để đổi mới hay chấp nhận công nghệ mới. Chúng ta
đã thấy ở chương 2, ở Vương quốc Kongo các nỗ lực để thúc đẩy việc sử dụng cày
đã thất bại như thế nào bởi vì người dân đã thiếu bất cứ khuyến khích nào, căn
cứ vào bản chất khai thác của các thể chế kinh tế. Nhà vua Kongo đã nhận ra
rằng nếu ông có thể khiến nhân dân sử dụng cày, thì năng suất nông nghiệp sẽ
cao hơn, tạo ra nhiều của cải hơn, mà ông đã có thể hưởng lợi từ đó. Đấy là một
khuyến khích tiềm năng cho tất cả các chính phủ, ngay cả cho các chính phủ
chuyên chế. Vấn đề ở Kongo đã là, nhân dân thì lại đã hiểu rằng bất cứ thứ gì
họ sản xuất ra đều bị tịch thu bởi một quốc vương chuyên chế, và vì thế họ đã
không có khuyến khích nào để đầu tư hay sử dụng công nghệ tốt hơn. Trong các
vùng đất Habsburg, Francis đã không khuyến khích các công dân của ông chấp nhận
làm theo công nghệ tốt hơn; ngược lại, ông thực sự chống lại nó, và đã ngăn
chặn sự phổ biến các công nghệ mà khác đi thì nhân dân đã có thể sẵn sàng chấp
nhận với các thể chế kinh tế hiện tồn.
Sự chống đối đổi mới đã được thể hiện theo hai cách. Thứ nhất,
Francis I đã chống sự phát triển công nghiệp. Công nghiệp dẫn đến các nhà máy,
và các nhà máy có thể tập trung những người lao động nghèo trong thành phố, đặc
biệt ở thủ đô Vienna .
Những người lao động đó rồi có thể trở thành những người ủng hộ các đối thủ của
chính thể chuyên chế. Các chính sách của ông đã nhằm siết chặt các elite truyền
thống và hiện trạng chính trị và kinh tế vào đúng chỗ. Ông đã muốn giữ xã hội
chủ yếu là nông nghiệp. Cách tốt nhất để làm việc này, Francis tin, đã là cản
việc xây dựng các nhà máy ngay từ đầu. Việc này ông đã trực tiếp làm – thí dụ,
trong năm 1802, cấm việc tạo ra các nhà máy mới ở Vienna . Thay cho việc khuyến khích nhập khẩu
và sự chấp nhận dùng máy móc mới, ông đã cấm cho đến tận 1811.
Thứ hai, ông đã chống lại việc xây dựng đường sắt, một trong những
công nghệ mới then chốt mà đã đến cùng Cách mạng Công nghiệp. Khi một kế hoạch
để xây dựng một đường sắt phía bắc được đệ trình lên Francis, ông đã trả lời,
“Không, không, ta không dính líu gì với nó, e rằng cách mạng có thể lẻn vào đất
nước này.”
Vì chính phủ đã không nhân nhượng cho việc xây dựng một đường sắt
hơi nước, đường sắt đầu tiên được xây dựng trong đế chế đã phải dùng các toa xe
ngựa kéo. Tuyến chạy giữa thành phố Linz , bên
sông Danube , và thành phố Budweise xứ Bohem,
bên sông Moldau, đã được xây dựng với độ dốc và các góc, mà đã có nghĩa rằng
không thể để chuyển đổi sang đầu máy hơi nước. Cho nên nó đã tiếp tục dùng sức
ngựa cho đến các năm 1860. Tiềm năng cho sự phát triển đường sắt trong đế chế
đã được cảm nhận từ sớm bởi nhà ngân hàng Salomon Rothschild, đại diện ở Vienna của gia đình lớn
kinh doanh ngân hàng. Anh của Salomon, Nathan, người đóng ở London , đã rất bị ấn tượng bởi động cơ “Tên
Lửa” của George Stephenson và tiềm năng cho đầu tàu hơi nước. Ông đã liên hệ
với em mình để khuyến khích anh ta tìm kiếm cơ hội để phát triển đường sắt ở
Áo, vì ông đã tin rằng gia đình có thể kiếm được lợi nhuận lớn bằng cách tài
trợ cho sự phát triển đường sắt. Nathan đã đồng ý, nhưng sơ đồ đã chẳng đi đến
đâu, bởi vì Hoàng đế Francis lại đơn giản đã nói không.
Sự phản đối công nghiệp và máy hơi nước đã xuất phát từ nỗi lo của
Francis về sự phá hủy sáng tạo mà đi cùng với sự phát triển của một nền kinh tế
hiện đại. Các ưu tiên chính của ông đã là đảm bảo sự ổn định của các thể chế
khai thác mà trên đó ông cai trị và bảo vệ các lợi thế của các elite truyền
thống những người đã ủng hộ ông. Không chỉ là, đã có ít để được lợi thêm từ
công nghiệp hóa, mà có thể làm xói mòn trật tự phong kiến bằng cách thu hút lao
động từ nông thôn ra thành thị, mà Francis cũng đã nhận ra sự đe dọa mà những
thay đổi kinh tế lớn có thể đặt ra cho quyền lực chính trị của ông. Như một kết
quả, ông đã chặn công nghiệp và tiến bộ kinh tế, nhốt đất nước trong tình trạng
lạc hậu kinh tế, mà đã thể hiện mình theo nhiều cách. Thí dụ, mãi đến 1883, khi
90 phần trăm của sản lượng sắt thế giới đã được sản xuất bằng sử dụng than đá,
thì hơn nửa sản lượng trong các lãnh thổ Habsburg vẫn sử dụng than củi kém hiệu
quả hơn nhiều. Tương tự, cho đến tận Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, khi đế
chế sụp đổ, việc dệt vải đã chẳng bao giờ được cơ giới hóa hoàn toàn mà vẫn
được tiến hành bằng tay.
Áo-Hungary đã không đơn độc trong nỗi sợ công nghiệp. Xa hơn ở
phía đông, Nga đã có một tập hợp chuyên chế ngang thế của các thể chế chính
trị, được rèn bởi Peter Đại Đế, như chúng ta đã thấy trước đây trong chương
này. Giống Áo-Hungary, các thể chế kinh tế của Nga đã hết sức khai thác, dựa
trên chế độ nông nô, giữ ít nhất một nửa dân cư gắn với đất. Các nông nô đã
phải làm việc không công ba ngày một tuần trên đất của chủ nô. Họ đã không thể
di chuyển, họ đã thiếu quyền tự do nghề nghiệp, và họ đã có thể bị bán tùy ý
của chủ nô của họ và chủ nô khác. Nhà triết học cấp tiến Peter Kropotkin, một
trong các nhà sáng lập của chủ nghĩa vô chính phủ, đã để lại sự mô tả sống động
về cách chế độ nông nô đã hoạt động dưới triều của Sa hoàng Nicolas I, người đã
cai trị Nga từ 1825 đến 1855. Ông đã nhớ lại thời thơ ấu của mình
những câu chuyện về những người đàn ông và đàn bà bị lôi khỏi gia
đình và làng xóm của họ và bị bán, bị thua cờ bạc, hay bị đổi lấy một cặp chó
săn, bị đưa đi nơi hẻo lánh nào đó của nước Nga … về những đứa trẻ bị giằng
khỏi cha mẹ chúng và bị bán cho các ông chủ tàn ác hay phóng đãng; về sự đánh
bằng roi “trong chuồng ngựa,” mà xảy ra hàng ngày với sự tàn ác không ai để ý
tới; về một cô gái người đã tìm thấy sự cứu rỗi duy nhất của cô trong việc để mình
chết đuối; về một người già tóc đã hoa râm vì đã phục vụ chủ mình từ lâu và
cuối cùng đã treo cổ mình dưới cửa sổ của ông chủ; và về các cuộc nổi loạn của
nông nô, mà đã bị đàn áp bởi các tướng của Nicholas I bằng cách đánh đòn cho
đến chết mỗi người thứ mười hay thứ năm bị nhấc ra khỏi hàng, và bằng cách tàn
phá làng mạc … Về sự nghèo khó mà tôi đã thấy trong các chuyến đi của chúng tôi
ở một số làng, đặc biệt ở các làng thuộc về gia đình đế chế, không có lời nào
là đủ để mô tả sự khốn khổ cho các bạn đọc chưa từng thấy nó.
Chính xác như ở Áo-Hungary, chính thể chuyên chế đã không chỉ tạo
ra một tập hợp các thể chế kinh tế cản trở sự thịnh vượng của xã hội. Đã có một
sự sợ tương tự về sự phá hủy sáng tạo và một nỗi sợ công nghiệp và đường sắt.
Tại tâm điểm của chuyện này dưới thời triều Nicholas I đã là Bá tước Egor
Kankrin, người đã phục vụ với tư cách bộ trưởng tài chính giữa 1823 và 1844 và
đã đóng vai trò then chốt trong chống lại những thay đổi xã hội cần thiết cho
sự thúc đẩy thịnh vượng kinh tế.
Các chính sách của Kankrin đã nhắm tới việc củng cổ các trụ cột
chính trị truyển thống của chế độ, đặc biệt giới quý tộc sở hữu đất, và giữ cho
xã hội là xã hội nông thôn và nông nghiệp. Vào lúc trở thành bộ trưởng tài
chính, Kankrin đã nhanh chóng chống lại và đảo ngược một đề xuất bởi bộ trưởng
tài chính trước, Gurev, để phát triển một Ngân hàng Thương mại do Chính phủ sở
hữu để cho công nghiệp vay tiền. Thay vào đó, Kankrin đã mở lại Ngân hàng Cho
vay Nhà nước mà đã bị đóng cửa trong các cuộc Chiến tranh Napoleon. Ngân hàng
này được tạo ra ban đầu để cho các địa chủ lớn vay với lãi suất được trợ cấp,
một chính sách Kankrin chấp thuận. Các khoản vay đòi hỏi những người muốn vay
phải đưa các nông nô như “vật đảm bảo,” hay tài sản thế chấp, cho nên chỉ có các
địa chủ phong kiến mới có thể kiếm được các khoản vay như vậy. Để cấp tài chính
cho Ngân hàng Cho vay Nhà nước, Kankrin đã chuyển các tài sản từ Ngân hàng
Thương mại, giết hai con chim bằng một hòn đá: bây giờ có ít tiền để lại cho
công nghiệp.
Thái độ của Kankrin đã bị định hình một cách nhìn thấy trước bởi
nỗi sợ rằng sự thay đổi kinh tế sẽ kéo theo sự thay đổi chính trị, và các nỗi
sợ của Sa hoàng Nicholas cũng đã thế. Sự lên nắm quyền của Nichlas trong tháng
Mười hai năm 1825 đã gần như bị hủy bởi một âm mưu đảo chính bởi các sĩ quan
quân đội, cái được gọi là những người Tháng Mười Hai, những người đã có một
chương trình cấp tiến về thay đổi xã hội. Nicholas đã viết cho Đại Công tước
Mikhail: “Cách mạng ở trước ngưỡng cửa nước Nga, nhưng tôi thề rằng nó sẽ không
xâm nhập vào đất nước này trong khi còn hơi thở trong thân thể tôi.”
Nicholas đã sợ những thay đổi xã hội mà việc tạo ra một nền kinh
tế hiện đại sẽ mang lại. Như ông đã diễn đạt trong một bài phát biểu ông đã nói
cho một cuộc gặp mặt của các nhà chế tạo tại một triển lãm công nghiệp ở Moscow :
cả nhà nước và các nhà chế tạo phải hướng sự chú ý vào một chủ đề,
mà không có nó thì chính các nhà máy sẽ trở thành một tai họa hơn là một phước
lành; đấy là sự cẩn trọng về những người lao động tăng lên về số lượng hàng
năm. Họ cần sự giám sát mạnh mẽ và gia trưởng về đạo đức của họ; không có nó
thì khối quần chúng này của nhân dân sẽ dần dần bị đồi bại và cuối cùng sẽ biến
thành giai cấp cũng cùng khổ ngang như như nguy hiểm cho các ông chủ của họ.
Hệt như với Francis I, Nicholas đã sợ rằng sự phá hủy sáng tạo
được tháo ra bởi một nền kinh tế công nghiệp hiện đại sẽ làm xói mòn hiện trạng
chính trị ở Nga. Được Nicholas thúc giục, Kankrin đã đưa ra các bước cụ thể để
làm chậm tiềm năng cho công nghiệp. Ông đã cấm nhiều cuộc triển lãm công
nghiệp, mà trước đó đã được tổ chức định kỳ để giới thiệu công nghệ mới và tạo
thuận lợi cho việc thích nghi công nghệ.
Trong năm 1848 châu Âu bị rung chuyển bởi một loạt các cuộc cách
mạng nổ ra. Đáp lại, A. A, Zakrevskii, thống đốc quân sự của Moscow, người chịu
trách nhiệm duy trì trật tự công, đã viết cho Nicholas: “Để duy trì sự bình yên
và thịnh vượng, mà hiện thời chỉ Nga được hưởng, chính phủ không được cho phép
sự tụ tập của những người vô gia cư và những kẻ phóng đãng, những người sẽ dễ
dàng tham gia mọi phong trào, phá hoại sự bình yên xã hội và sự yên bình
riêng.” Lời khuyên của ông đã được đưa ra trước các bộ trưởng của Nicholas, và
trong năm 1849 một luật mới đã được ban hành đặt ra những hạn chế nghiêm ngặt về
số nhà máy có thể được mở ở bất cứ phần nào của Moscow. Nó đặc biệt đã cấm mở
bất cứ xưởng kéo sợi bông và len mới nào và các xưởng đúc sắt. Các ngành khác,
như dệt và nhuộm, đã phải kiến nghị lên thống đốc quân sự nếu họ muốn mở các
nhà máy mới. Cuối cùng kéo sợi bông đã bị cấm một cách tường minh. Luật đã có ý
định ngừng bất cứ sự tập trung thêm nào của các công nhân có tiềm năng nổi loạn
trong thành phố.
Sự chống đối đường sắt đi cùng với sự chống đối công nghiệp, chính
xác như ở Áo-Hungary. Trước 1842 đã chỉ có một tuyến đường sắt ở Nga. Đấy là
Đường sắt Tsarskoe Selo, mà đã chạy mười bảy dặm từ Saint Peterburg đến các
dinh thự đế chế ở Tsarskoe Selo và Pavlosk. Hệt như Kankrin đã chống lại công
nghiệp, ông đã không thấy lý do nào để đẩy mạnh đường sắt, mà ông đã cho rằng
sẽ mang lại một sự linh động nguy hiểm về mặt xã hội, lưu ý rằng, “đường sắt
không luôn luôn là kết quả từ sự cần thiết tự nhiên, mà nhiều hơn là một đối
tượng của nhu cầu nhân tạo hay sự xa hoa. Chúng khuyến khích sự đi lại không
cần thiết từ nơi này sang nơi khác, mà hoàn toàn là điển hình của thời đại
chúng ta.”
Kankrin đã bác bỏ rất nhiều cuộc bỏ thầu để xây dựng đường sắt, và
chỉ đến 1851 mới có một tuyến được xây dựng nối Moscow và Saint Peterburg.
Chính sách của Kankrin được tiếp tục bởi Bá tước Kleinmichel, người được cử
đứng đầu cơ quan hành chính quản lý chính về Giao Thông và Công Thự. Tổ chức
này đã trở thành trọng tài chính của việc xây dựng đường sắt, và Kleinmichel đã
sử dụng nó như một cái bệ để làm nản lòng việc xây dựng chúng. Sau 1849 ông
thậm chí đã còn dùng quyền lực của mình để kiểm duyệt sự thảo luận về phát
triển đường sắt trên báo chí.
Bản đồ 13 cho thấy các hệ quả của logic này. Trong khi Vương
quốc Anh và hầu hết Tây bắc châu Âu đã chằng chịt đường sắt trong năm 1870, rất
ít đã thâm nhập vào lãnh thổ mênh mông của Nga. Chính sách chống đường sắt đã
chỉ đảo ngược sau khi Nga bị các lực lượng Anh, Pháp, và Ottoman đánh bại một
cách dứt khoát trong Chiến tranh Crime, 1853-1856, khi sự lạc hậu của mạng lưới
giao thông của nó đã được hiểu là cái gây khó khăn trở ngại cho an ninh của
Nga. Cũng đã có ít sự phát triển đường sắt ở Áo-Hungary, bên ngoài Áo và phần
phía Tây của đế chế, mặc dù các cuộc Cách mạng 1848 đã mang lại những thay đổi
cho các lãnh thổ này, đặc biệt là sự xóa bỏ chế độ nông nô.
KHÔNG TÀU BÈ NÀO ĐƯỢC PHÉP
Chính thể chuyên chế đã ngự trị không chỉ ở phần lớn châu Âu mà cả
ở châu Á nữa, và một cách tương tự đã ngăn cản sự công nghiệp hóa trong bước
ngoặt do Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Các triều đại Minh và Thanh ở Trung Quốc
và chính thể chuyên chế của Đế chế Ottoman minh họa điều này. Dưới triều Tống,
giữa 960 và 1279, Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới về nhiều đổi mới công nghệ.
Những người Trung Quốc đã sáng chế ra đồng hồ, la bàn, thuốc súng, giấy và tiền
giấy, đồ sứ, và lò nung thổi để chế tạo gang trước khi châu Âu đã sáng chế ra.
Họ đã phát triển một cách độc lập guồng xe sợi và sức nước ít nhiều cùng thời
gian mà những công nghệ này nổi lên ở đầu bên kia của đại lục Á-Âu. Kết quả là,
trong năm 1500 mức sống ở Trung Quốc ít nhất cũng cao như ở châu Âu. Trong
nhiều thế kỷ Trung Quốc cũng đã có một nhà nước tập trung với một bộ máy công
vụ được tuyển theo công trạng.
Thế nhưng Trung Quốc đã là chuyên chế, và sự tăng trưởng dưới
triều Tống đã là sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác. Đã không có sự đại
diện chính trị cho các nhóm khác với nền quân chủ trong xã hội, đã chẳng có gì
giống với Quốc hội hay Cortes cả. Các nhà buôn đã luôn luôn có địa vị bấp bênh
ở Trung Quốc, và những sáng chế vĩ đại của nhà Tống đã không được kích thích
bởi những khuyến khích thị trường mà đã được sinh ra dưới sự bảo trợ, thậm chí
dưới các mệnh lệnh của chính phủ. Ít trong số này được thương mại hóa. Sự nắm
chặt của nhà nước được siết chặt trong các triều Minh và Thanh mà đã tiếp sau
nhà Tống. Tại gốc rễ của tất cả việc này là logic thông thường của các thể chế
khai thác. Như hầu hết các nhà cai trị đứng đầu các thể chế khai thác, các
hoàng đế chuyên chế của Trung Quốc đã chống sự thay đổi, tìm kiếm sự ổn định,
và về bản chất sợ sự phá hủy sáng tạo.
Điều này được minh họa tốt nhất bằng lịch sử của thương mại quốc
tế. Như chúng ta đã thấy việc phát hiện ra châu Mỹ và cách thương mại quốc tế
được tổ chức đã đóng một vai trò then chốt trong các xung đột chính trị và
những thay đổi thể chế của châu Âu hiện đại lúc ban đầu. Tại Trung Quốc, trong
khi các nhà buôn đã dính líu thông thường vào buôn bán trong nước, còn nhà nước
đã độc quyền buôn bán với nước ngoài. Khi nhà Minh lên nắm quyền năm 1368,
Hoàng đế Hồng Vũ người đã cai trị đầu tiên, trong ba mươi năm. Hồng Vũ đã lo
rằng thương mại quốc tế sẽ gây bất ổn chính trị và xã hội và ông đã cho phép
thương mại quốc tế xảy ra chỉ nếu nó được tổ chức bởi chính phủ và chỉ nếu nó
dính dáng đến triều cống, chứ không phải hoạt động thương mại. Hồng Vũ thậm chí
đã hành quyết hàng trăm người bị kết án thử biến các đợt công cán triều cống
thành các vụ kinh doanh thương mại. Giữa 1377 và 1397 không đợt công cán triều
cống bằng đường biển nào được cho phép. Ông đã cấm các cá nhân buôn bán với người
nước ngoài và đã không cho phép người Trung Quốc đi thuyền ra nước ngoài.
Trong năm 1402, Hoàng đế Vĩnh Lạc lên ngôi và đã khởi xướng một
giai đoạn nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc bằng cách khởi động ngoại
thương do nhà nước tài trợ trên quy mô lớn. Vĩnh Lạc đã tài trợ Đô đốc Trịnh
Hòa để tiến hành sáu đợt công cán khổng lồ đến Đông Nam
và Nam Á, Arabia , và châu Phi. Những người
Trung Quốc đã biết về các địa điểm này từ một lịch sử lâu đời về các mối quan
hệ thương mại, nhưng đã chẳng có gì từng xảy ra trước đây với quy mô này. Đoàn
thuyền đầu tiên đã gồm 27.800 người và 62 thuyền kho báu lớn, được hộ tống bởi
190 thuyền nhỏ hơn, kể cả các thuyền dành riêng cho việc chở nước ngọt, các
thuyền khác cho việc cung ứng, và các thuyền khác nữa cho binh lính. Thế nhưng
Hoàng đế Vĩnh Lạc đã tạm ngưng sau chuyến thứ sáu trong năm 1422. Việc ngừng
được biến thành lâu dài bởi người kế vị ông, Hồng Hi, người đã cai trị từ 1424
đến 1425. Cái chết sớm của Hồng Hi đã đưa Hoàng đế Tuyên Đức lên ngôi, người
đầu tiên đã cho phép Trịnh Hòa một chuyến cuối cùng, trong năm 1433. Nhưng sau
chuyến này, tất cả ngoại thương đã bị cấm. Vào năm 1436 việc xây dựng tàu
thuyền đi biển đã thậm chí bị coi là bất hợp pháp. Việc cấm ngoại thương đã
không được dỡ bỏ cho đến 1567.
Các sự kiện này, mặc dù chỉ là đỉnh nổi của tảng băng khai thác mà
đã ngăn chặn nhiều hoạt động kinh tế được cho là có tiềm năng gây bất ổn định,
đã có một tác động cơ bản lên sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Đúng vào lúc
khi thương mại quốc tế và sự khám phá ra châu Mỹ đã làm biến đổi các thể chế
của nước Anh, Trung Quốc đã cô lập mình khỏi bước ngoặt này và quay theo hướng
nội. Việc quay hướng nội này đã không chấm dứt trong năm 1567. Triều đình nhà
Minh đã bị những người Jurchen, người Mãn châu bên trong châu Á, tràn ngập
chiếm, những người đã tạo ra triều đại nhà Thanh. Một thời kỳ bất ổn chính trị
gay gắt sau đó đã kéo theo. Những người Thanh đã tiến hành chiếm đoạt hàng loạt
bất động sản và tài sản. Trong các năm 1690, Đường Chân, một học giả Trung Quốc
đã về hưu, một nhà buôn thất bại, đã viết:
Hơn năm mươi năm đã trôi qua kể từ khi thành lập triều đại nhà
Thanh, và đế chế đã nghèo dần từng ngày. Các nông dân cơ cực, các thợ thủ công
cơ cực, các nhà buôn cơ cực, và các quan chức cũng cơ cực. Ngũ cốc rẻ, thế
nhưng khó để ăn no. Quần áo rẻ, thế nhưng khó để che thân. Thuyền chất hàng hóa
đi từ nơi họp chợ này đến nơi kia, nhưng hàng phải bán lỗ. Các quan chức lúc
rời vị trí của mình mới phát hiện ra không có số tiền cần thiết nào để hỗ trợ
gia đình họ. Quả thực cả bốn nghề đều bị bần cùng hóa.
Trong năm 1661 hoàng đế Khang Hy đã ra lệnh rằng tất cả người dân
sống ở bờ biển từ Việt Nam đến Chiết Giang – về cơ bản toàn bộ bờ biển phía
nam, một thời là phần tích cực nhất về mặt thương mại của Trung Quốc – phải
chuyển vào bên trong đất liền mười bảy dặm. Bờ biển được tuần tra bởi binh lính
để thực thi biện pháp đó, và cho đến 1693 đã có lệnh cấm tàu bè ở mọi nơi trên
bờ biển. Sự cấm này đã được áp đặt định kỳ trong thế kỷ thứ mười tám, trên thực
tế làm còi cọc sự nổi lên của thương mại quốc tế của Trung Quốc. Mặc dù một số
người đã đầu tư, ít người đã sẵn sàng đầu tư khi hoàng đế có thể đột ngột thay
đổi ý của ông và cấm thương mại, làm cho các khoản đầu tư vào tàu thuyền, trang
thiết bị, và các quan hệ thương mại thành vô dụng hay thậm chí tồi hơn.
Lập luận của các nhà nước Minh và Thanh cho việc chống đối ngoại
thương bây giờ là quen thuộc: nỗi sợ sự phá hủy sáng tạo. Mục đích chủ yếu của
các nhà lãnh đạo là ổn định chính trị. Thương mại quốc tế đã có tiềm năng gây
bất ổn định vì các nhà buôn trở nên giàu có và mạnh bạo hơn, như họ đã thế ở
nước Anh trong thời kỳ mở rộng thương mại Đại Tây Dương. Đấy đã không chỉ là
cái mà các nhà cai trị đã tin trong các triều đại Minh và Thanh, mà cũng đã là
thái độ của các nhà cai trị của triều Tống, cho dù họ đã sẵn sàng tài trợ cho
những đổi mới công nghệ và cho phép quyền tự do thương mại lớn hơn, với điều
kiện rằng điều này dưới sự kiểm soát của họ. Tình hình trở nên tồi tệ hơn dưới
các triều Minh và Thanh vì sự kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động kinh
tế được siết chặt và ngoại thương bị cấm. Chắc chắn đã có các thị trường ở
Trung Quốc thời Minh và thời Thanh, và chính phủ đã đánh thuế nền kinh tế nội
địa khá nhẹ. Tuy vậy, nó đã làm ít để hỗ trợ sự đổi mới sáng tạo, và nó đã đánh
đổi sự phát triển buôn bán hay sự thịnh vượng công nghiệp lấy sự ổn định chính
trị. Hệ quả của tất cả sự kiểm soát chuyên chế này đối với nền kinh tế đã là có
thể tiên đoán được: nền kinh tế Trung Quốc đã trì trệ suốt thế kỷ thứ mười chín
và đầu thế kỷ thứ hai mươi, trong khi các nền kinh tế khác đang công nghiệp
hóa. Vào lúc Mao dựng lên chế độ cộng sản của ông năm 1949, Trung Quốc đã trở
thành một trong những nước nghèo nhất thế giới.
CHÍNH THỂ CHUYÊN CHẾ CỦA PRESTER JOHN
Chính thể chuyên chế với tư cách một tập hợp của các thể chế chính
trị và các hệ quả kinh tế nảy sinh từ nó đã không hạn chế ở châu Âu và châu Á.
Nó đã hiện diện ở châu Phi, chẳng hạn, với Vương quốc Kongo, như chúng ta đã
thấy ở chương 2. Một thí dụ thậm chí còn kéo dài hơn về chính thể chuyên chế
Phi châu là Ethiopia, hay Abyssinia, mà gốc rễ của nó chúng ta đã bắt gặp ở
chương 6, khi chúng ta thảo luận về sự nổi lên của chủ nghĩa phong kiến sau sự
suy sụp của Aksum. Chính thể chuyên chế Abyssinia thậm chí đã sống lâu hơn
chính thể chuyên chế Âu châu, bởi vì nó đã đối mặt với những thách thức rất
khác trong các bước ngoặt.
Sau khi vua Ezana xứ Aksum cải đạo
sang Kitô giáo, những người Ethiopia
vẫn theo Kitô giáo, và vào thế kỷ thứ mười bốn họ đã trở thành tiêu điểm của huyền
thoại về nhà Vua Prester John. Prester John đã là một nhà vua theo Kitô giáo
người đã bị cắt rời khỏi châu Âu bởi sự trỗi dậy của Hồi giáo ở Trung Đông. Ban
đầu vương quốc của ông được cho là ở Ấn Độ. Tuy vậy, khi sự hiểu biết Âu châu
về Ấn Độ tăng lên, đã hóa ra là không phải vậy. Vua Ethiopia , vì ông theo Kitô giáo,
nên sau đó đã trở thành một mục tiêu tự nhiên cho huyền thoại này. Các vua của
Ethiopia thực ra đã cật lực thử tạo các liên minh với các quốc vương Âu châu để
chống lại các cuộc xâm lấn của người Arab, gửi các phái đoàn ngoại giao đến
châu Âu chí ít từ 1300 trở đi, thậm chí thuyết phục vua Bồ Đào Nha gửi binh
lính đến.
Những người lính này, cùng với các nhà ngoại giao, các giáo sĩ
dòng Jesuit, và các khách lữ hành muốn gặp Prester John, đã để lại nhiều tường
thuật về Ethiopia. Một số lý thú nhất từ quan điểm kinh tế học là các tường
thuật của Francisco Álvares, một cha tuyên úy đi cùng với một phái đoàn ngoại
giao Bồ Đào Nha, người đã ở Ethiopia từ 1520 đến 1527. Ngoài ra, có các tường
thuật bởi giáo sĩ dòng Jesuit Manoel de Almeida, người đã sống ở Ethiopia từ
1624, và bởi John Bruce, một khách lữ hành người đã ở đó giữa 1768 và 1773. Các
bài viết của những người này cho một tường thuật phong phú về các thể chế chính
trị và kinh tế vào thời đó ở Ethiopia và không để lại nghi ngờ nào rằng
Ethiopia đã là một mẫu hoàn hảo của chính thể chuyên chế. Đã không có các thể
chế đa nguyên thuộc bất cứ loại nào, cũng đã chẳng có sự kiểm soát và ràng buộc
lên quyền lực của hoàng đế, người đòi quyền để cai trị trên cơ sở được cho là
hậu duệ từ đức Vua Solomon và Hoàng hậu Sheba nổi tiếng.
Hệ quả của chính thể chuyên chế đã là sự hết sức không an toàn của
các quyền tài sản bị dẫn dắt bởi chiến lược chính trị của hoàng đế. Bruce,
chẳng hạn, đã lưu ý rằng
tất cả đất đai đều của nhà vua; ngài cho ai đó ngài thích trong
lúc vui, và lấy lại khi ngài muốn. Và ngay khi ông chết toàn bộ đất đai trong
vương quốc thuộc Quốc vương tùy ý sử dụng; và không chỉ có thế, với cái chết
của chủ sở hữu hiện hành, các tài sản của người đó dẫu đã được hưởng lâu đến
đâu, đều trở về nhà vua, chứ không thuộc về con trai cả.
Álvares đã cho rằng có nhiều “trái cây và sự trồng trọt” hơn rất
nhiều “nếu những người vĩ đại đã không đối xử tồi với nhân dân”. Tường thuật
của Almeida về xã hội đã hoạt động thế nào là rất nhất quán. Ông đã nhận xét:
Hết sức thông thường đối với hoàng đế để trao đổi, thay đổi và lấy
đi đất mà mỗi người nắm giữ mỗi hai hay ba năm, đôi khi mỗi năm và thậm chí
nhiều lần trong một năm, điều đó không gây ra sự ngạc nhiên nào. Thường một
người cày ruộng, người khác gieo hạt và người khác nữa thu hoạch. Vì thế chẳng
ai chăm lo cho đất mà họ được hưởng; thậm chí chẳng có ai trồng cây bởi vì anh
ta biết rằng người trồng hiếm khi hái quả. Đối với nhà vua, tuy vậy, là hữu ích
rằng họ phải hết sức lệ thuộc vào ông.
Những mô tả này gợi ý những sự giống nhau chính giữa các cấu trúc
chính trị và kinh tế của Ethiopia và cấu trúc của các chính thể chuyên chế Âu
châu, mặc dù chúng cũng làm rõ là, chính thể chuyên chế là gay gắt hơn ở
Ethiopia, và các thể chế kinh tế thậm chí còn khai thác hơn. Ngoài ra, như
chúng ta đã nhấn mạnh trong chương 6, Ethiopia đã không chịu cùng bước
ngoặt mà đã giúp làm xói mòn chế độ chuyên chế ở nước Anh. Nó đã bị cô lập khỏi
nhiều quá trình mà đã định hình thế giới hiện đại. Cho dù điều này có không
phải vậy, cường độ của chính thể chuyên chế của nó có lẽ đã dẫn chính thể
chuyên chế củng cố thậm chí hơn nữa. Thí dụ, như ở Tây Ban Nha, thương mại quốc
tế ở Ethiopia, kể cả việc buôn bán nô lệ béo bở, đã được quốc vương kiểm soát. Ethiopia đã
không hoàn toàn cô độc: những người Âu châu đã tìm kiếm Prester John, và nó đã
phải chiến đấu trong các cuộc chiến tranh chống lại các chính thể Islamic bao
quanh. Tuy nhiên, sử gia Edward Gibbon đã nhận xét với sự chính xác nào đó rằng
“bị bao quanh từ mọi phía bởi các kẻ thù tôn giáo của họ, những người Ethiopia đã ngủ
gần một ngàn năm, quên thế giới bởi những người mà họ đã quên.”
Khi sự thuộc địa hóa châu Phi của những người Âu châu bắt đầu
trong thế kỷ thứ mười chín, Ethiopia đã là một vương quốc độc lập dưới thời Ras
(Công tước) Kassa, người đã được phong làm Hoàng đế Tewodros II trong năm 1855.
Tewodros đã bắt đầu một công cuộc hiện đại hóa nhà nước, tạo ra bộ máy hành
chính quan liêu và tư pháp tập trung hơn, và một quân đội có khả năng kiểm soát
đất nước và có lẽ chiến đấu chống những người Âu châu. Ông đã đặt ra các thống
đốc quân sự, chịu trách nhiệm thu thuế và chuyển cho ông, phụ trách tất cả các
tỉnh. Các cuộc thương thuyết của ông với các cường quốc Âu châu đã khó khăn, và
trong lúc điên tiết ông đã tống giam lãnh sự Anh. Trong năm 1868 những người
Anh đã cử một lực lượng viễn chinh, mà đã cướp phá thủ đô của ông. Tewodros đã
tự vẫn.
Dẫu sao, chính phủ được xây dựng lại của Tewodros đã xoay xở để có
được một trong những thắng lợi lớn chống thực dân của thế kỷ thứ mười chín,
chống lại những người Italy .
Trong năm 1889 ngai vàng được chuyển cho Menelik II, người ngay lập tức phải
đối mặt với sự quan tâm của Italy
để lập một thuộc địa ở đó. Năm 1885 thủ tướng Đức Bismarck đã triệu tập một hội
nghị tại Berlin nơi các cường quốc Âu châu đã ngấm ngầm dự tính “Tranh giành
châu Phi” – tức là, họ đã quyết định chia châu Phi như thế nào thành các lĩnh
vực lợi ích khác nhau. Tại hội nghị đó Italy
đã đạt được các quyền của mình đối với các thuộc địa ở Eritrea , dọc bờ biển Ethiopia
và Somalia .
Ethiopia ,
mặc dù đã không được đại diện tại hội nghị, bằng cách nào đó đã tìm được cách
để sống sót nguyên vẹn. Nhưng những người Italy
vẫn giữ các ý đồ, và trong năm 1896 họ tiến quân về phía nam từ Eritrea . Sự đáp
trả của Menelik đã giống như sự đáp trả của một nhà vua Âu châu thời trung cổ;
đông đã lập ra một quân đội bằng cách sai các quý tộc gọi những người được vũ
trang của họ nhập ngũ. Cách tiếp cận này đã không thể đưa một quân đội ra chiến
trường trong thời gian dài, nhưng đã có thể huy động một đội quân khổng lồ lại
với nhau trong thời gian ngắn. Thời gian ngắn này đã vừa đủ để đánh bại những
người Italy ,
mà mười lăm ngàn quân của họ bị áp đảo tràn ngập bởi một trăm ngàn quân của
Menelik trong Trận Adowa năm 1896. Đó đã là thất bại quân sự nghiêm trọng nhất
mà một nước tiền thuộc địa Phi châu đã có thể giáng xuống một cường quốc Âu
châu, và đã giữ được sự độc lập của Ethiopia thêm bốn mươi năm nữa.
Hoàng đế cuối cùng của Ethiopia , Ras
Tafari, được phong làm hoàng đế Haile Selassie trong năm 1930. Haile Selassie
đã cai trị cho đến khi ông bị lật đổ bởi cuộc xâm chiếm lần thứ hai của Italy,
mà bắt đầu năm 1935, nhưng ông đã quay trở lại từ chốn lưu đày với sự giúp đỡ
của người Anh trong năm 1941. Sau đó ông đã cai trị cho đến khi bị lật đổ trong
một cuộc đảo chính năm 1974 bởi Derg, “Ủy ban”, một nhóm Marxist là các sĩ quan
quân đội, những người sau đó đã tiếp tục bần cùng hóa và tàn phá đất nước. Các
thể chế kinh tế khai thác cơ bản của đế chế Ethiopia chuyên chế, như gult (trang
178), và chủ nghĩa phong kiến được tạo ra sau sự suy tàn của Aksum, đã kéo dài
cho đến khi chúng bị xóa bỏ sau cách mạng 1974.
Ngày nay Ethiopia
là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Thu nhập của một người Ethiopia trung
bình bằng khoảng một phần bốn mươi thu nhập của một công dân Anh trung bình.
Hầu hết người dân sống ở nông thôn và thực hành nền nông nghiệp đủ sống qua
ngày. Họ thiếu nước sạch, điện, và sự tiếp cận đến trường học hay chăm sóc sức
khỏe thích hợp. Ước tính tuổi thọ là khoảng năm mươi lăm tuổi và chỉ một phần
ba người lớn biết đọc biết viết. Một sự so sánh giữa Anh và Ethiopia bao
quát sự bất bình đẳng thế giới. Lý do Ethiopia
ở nơi nó ở ngày nay là, không giống ở nước Anh, ở Ethiopia chính thể chuyên chế đã
tồn tại dai dẳng cho đến gần đây. Với chính thể chuyên chế, các thể chế kinh tế
khai thác và sự nghèo khó đến với quần chúng nhân dân Ethiopia , mặc
dù tất nhiên các hoàng đế và giới quý tộc đã hưởng lợi khổng lồ. Nhưng hệ lụy
lâu dài nhất của chính thể chuyên chế đã là, xã hội Ethiopia đã không tận dụng
được những cơ hội công nghiệp hóa trong thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ
hai mươi, và đấy là nguyên nhân chính của sự nghèo xác nghèo xơ của các công
dân của nó hôm nay.
NHỮNG ĐỨA CON CỦA SOMAALE
Các thể chế chính trị chuyên chế quanh thế giới đã cản trở công
nghiệp hóa hoặc một cách gián tiếp, theo cách chúng tổ chức các thể chế kinh
tế, hoặc một cách trực tiếp, như chúng ta đã thấy ở Áo-Hungary và Nga. Nhưng
chính thể chuyên chế đã không là vật cản trở duy nhất cho sự nổi lên của các
thể chế kinh tế bao gồm. Vào buổi ban đầu của thế kỷ thứ mười chín, nhiều phần
của thế giới, đặc biệt ở châu Phi, đã thiếu một nhà nước mà có thể cung cấp
ngay cả mức tối thiểu luật và trật tự, mà là điều kiện tiên quyết để có một nền
kinh tế hiện đại. Đã không có người tương đương của một Peter Đại Đế ở Nga bắt
đầu quá trình tập trung hóa chính trị và sau đó tạo dựng chính thể chuyên chế
Nga, nói chi đến những người tương đương của nhà Tudor ở nước Anh tập trung hóa
nhà nước mà không hoàn toàn phá hủy – hay, chính xác hơn, mà không hoàn toàn có
khả năng phá hủy – Quốc hội và các ràng buộc khác lên quyền lực của họ. Không
có một mức độ nào đó của sự tập trung chính trị, cho dù các elite của các chính
thể Phi châu này đã có muốn chào đón công nghiệp hóa với những cánh tay rộng
mở, họ cũng đã chẳng làm đưowcj mấy Somalia , nằm ở Sừng châu Phi, minh họa các tác
động tàn phá ghê gớm của việc thiếu sự tập trung hóa chính trị. Somalia đã bị
cai trị về mặt lịch sử bởi những người được tổ chức thành sáu họ thị tộc. Bốn
họ thị tộc lớn nhất là, Dir, Darod, Isaq, và Hawiye, tất cả đều truy nguyên tổ
tiên của họ về một tổ tiên huyền bí Samaale. Các họ thị tộc này có xuất xứ ở
bắc Somalia
và dần dần đã lan xuống miền nam và sang miền đông, và ngay cả ngày nay chủ yếu
là dân mục đồng, những người di cư với các đàn dê, cừu, và lạc đà của họ. Ở
miền nam, những người Digil và Rahanweyn, định cư làm nông nghiệp, tạo thành
hai họ thị tộc còn lại. Các lãnh thổ của các họ thị tộc này được vẽ trên Bản đồ
12 (trang 177).
Những người Somali đồng nhất mình trước
tiên với họ thị tộc của mình, nhưng các họ thị tộc này là rất lớn và chứa nhiều
nhóm con. Đầu tiên giữa các nhóm này là các thị tộc mà truy dòng dõi của họ về
một trong các họ thị tộc lớn hơn. Quan trọng hơn là các nhóm bên trong các thị
tộc được gọi là các nhóm trả-diya, mà gồm có
những người bà con họ hàng có quan hệ mật thiết những người trả và thu diya,
hay “tài sản máu-blood wealth,” sự đền bù đối với việc giết một thành viên của
họ. Các thị tộc Somali và các nhóm trả-diya về mặt lịch sử đã bị khóa chặt vào
xung đột hầu như liên miên vì các nguồn lực khan hiếm để tùy họ sử dụng, đặc
biệt là các nguồn nước và đất đồng cỏ cho súc vật của họ. Họ cũng liên tục đột
kích các bầy của các thị tộc láng giềng và các nhóm trả-diya. Mặc dù các thị tộc có các lãnh đạo gọi là các
sultan, và cả những người già, những người này không có quyền lực thực sự.
Quyền lực chính trị được phân tán rất rộng, với mỗi người lớn Somali đều có khả
năng có tiếng nói của mình về các quyết định mà có thể tác động đến thị tộc hay
nhóm. Điều này đạt được thông qua một hội đồng phi hình thức bao gồm tất cả
những người đàn ông trưởng thành. Đã không có luật thành văn, không có cảnh
sát, và không có hệ thống pháp lý để nói đến, trừ luật Sharia được dùng như một
khung khổ mà trong đó các luật phi chính thức được nhúng vào. Các luật phi
chính thức đối với một nhóm trả-diya được mã hóa trong cái được gọi là heer
(tộc ước), một bộ các nghĩa vụ, các quyền, và các trách nhiệm được
trình bày một cách rõ ràng mà nhóm đòi hỏi những người khác tuân theo trong các
tương tác của họ với nhóm. Với sự đến của sự cai trị thuộc địa, các heer này bắt đầu được viết thành văn. Thí
dụ, dòng dõi Hassan Ugaas đã tạo thành một nhóm trả-diya của
khoảng một ngàn năm trăm đàn ông và là một tiểu thị tộc của họ thị tộc Dir ở
Somaliland thuộc Anh. Ngày 8-3-1950, heer của
họ được nghi lại bởi ủy viên quận Anh, ba điều khoản đầu tiên của nó có nghĩa
là:
-
Khi
một người đàn ông Hassan Ugaas bị giết bởi một nhóm bên ngoài, thì hai mươi con
lạc đà trong số tài sản máu (100) của anh ta sẽ được bà con gần nhất của anh ta
lấy và tám mươi con lạc đà còn lại được chia giữa tất cả những người Hassan
Ugaas.
-
Nếu
một người đàn ông Hassan Ugaas bị một người ngoài làm bị thương và thương tật
của anh ta được đánh giá là ba mươi ba và một phần ba con lạc đà, thì mười con
được đưa cho anh ta và số còn lại cho nhóm-jiffo của anh ta (nhóm con của nhóm
trả-diya).
-
Tội
giết người giữa các thành viên Hassan Ugaas phải chịu một khoản đền bù ở mức ba
mươi ba và một phần ba con lạc đà, được trả chỉ cho bà con thân thiết nhất của
người đã mất. Nếu thủ phạm không có khả năng trả toàn bộ hay một phần, anh ta
sẽ được dòng dõi giúp đỡ.
Sự chú tâm mạnh của heer vào việc giết và làm bị thương phản
ánh trạng thái chiến tranh hầu như liên miên giữa các nhóm trả-diya và
các thị tộc. Trung tâm của việc này đã là tài sản máu và hận thù máu. Một tội
chống lại một cá nhân cá biệt là một tội chống lại cả nhóm trả-diya, và đòi hỏi phải đền bù tập thể, tài sản máu. Nếu
tài sản máu như vậy không được trả, nhóm trả-diya của kẻ đã giết người đối mặt với sự
trừng phạt tập thể của nạn nhân. Khi giao thông hiện đại đến Somalia , tài
sản máu được mở rộng ra cho những người bị chết hay bị thương trong các tai nạn
giao thông. Heer của
Hassan Ugaas đã không chỉ dẫn chiếu đến sự giết người; điều 6 đã là “nếu một
người Hassan Ugaas lăng mạ người khác tại một hội đồng Hassan Ugaas anh ta sẽ
trả 150 shilling cho bên bị xúc phạm.”
Đầu năm 1955, các đàn của hai thị tộc,
Habar Tol Ja’lo và Habar Yuunis, đang ăn cỏ gần nhau ở vùng Domberelly. Một
người từ thị tộc Yuunis đã bị thương sau một cuộc tranh cãi với một thành viên
của thị tộc Tol Ja’lo về chăn lạc đà. Thị tộc Yuunis lập tức trừng phạt, tấn
công thị tộc Tol Ja’lo và giết một người. Cái chết này đã dẫn, theo luật tài
sản máu, đến việc thị tộc Yunnis đề nghị đền bù cho thị tộc Tol Ja’lo, mà đã
được chấp nhận. Người Yuunis đã phải đích thân đưa tài sản máu, như thường lệ
bằng lạc đà. Trong lễ trao, một thành viên Tol Ja’lo đã giết một thành viên
Yuunis, nhầm anh ta với thành viên của nhóm trả-diya của
kẻ giết người. Việc này đã dẫn đến chiến tranh toàn lực, và trong vòng bốn mươi
tám giờ mười ba người Yuunis và hai mươi sáu người Tol Ja’lo đã bị giết. Chiến
tranh kéo dài thêm một năm nữa trước khi các già làng từ cả hai thị tộc, do
chính quyền thuộc địa Anh dàn hòa, đã tìm được cách môi giới một thương vụ
(trao đổi tài sản máu) mà thỏa mãn cả hai phía và được trả trong ba năm tiếp
theo.
Việc trả tài sản máu đã xảy ra dưới cái bóng của sự đe dọa sức
mạnh và sự hận thù, và ngay cả khi nó được trả, nó đã không nhất thiết ngừng
xung đột. Thường xung đột lắng xuống và rồi lại bùng lên.
Quyền lực chính trị như thế được phân tán rộng trong xã hội Somali,
hầu như một cách đa nguyên. Nhưng không có quyền lực của một nhà nước tập trung
để thực thi trật tự, nói chi đến các quyền tài sản, thì việc này dẫn không đến
các thể chế bao gồm. Chẳng ai tôn trọng quyền hạn của người khác, và chẳng ai,
kể cả nhà nước thuộc địa Anh khi cuối cùng nó đã đến, đã có khả năng áp đặt
trật tự. Sự thiếu tập trung hóa chính trị đã làm cho là không thể đối với người
Somali để hưởng lợi từ Cách mạng Công nghiệp. Trong một bầu không khí như vậy
là không thể tưởng tượng nổi để đầu tư vào hay chấp nhận các công nghệ mới bắt
nguồn từ Anh, hay quả thực để tạo ra loại tổ chức cần thiết để làm vậy.
Hoạt động chính trị phức tạp của Somalia đã thậm chí có các hệ lụy
tế nhị hơn đối với tiến bộ kinh tế. Chúng ta đã nhắc tới ở trước một vài trong
số các câu đố công nghệ lớn của lịch sử châu Phi. Trước sự mở rộng của sự cai
trị thuộc địa vào cuối thế kỷ thứ mười chín, các xã hội Phi châu đã không sử
dụng bánh xe trong giao thông hay cày trong nông nghiệp, và ít xã hội có chữ
viết. Ethiopia đã có như chúng ta đã thấy. Những người Somali cũng đã có chữ
viết, nhưng không giống những người Ethiopia, họ đã không sử dụng nó. Chúng ta
đã thấy rồi các trường hợp thế này trong lịch sử Phi châu. Các xã hội Phi châu
đã có thể không sử dụng bánh xe hay cày, nhưng chắc chắn họ biết về chúng.
Trong trường hợp của vương quốc Kongo mà chúng ta đã thấy, đấy đã cơ bản là do
sự thực rằng các thể chế kinh tế đã không tạo ra các khuyến khích nào cho người
dân để chấp nhận làm theo các công nghệ này. Liệu cùng các vấn đề có thể nảy
sinh với sự chấp nhận chữ viết hay không?
Chúng ta có thể có được cảm nhận nào đó về điều này từ Vương quốc
Taqali, nằm ở tây bắc Somalia, ở Nuba Hills của nam Sudan. Vương quốc Taqali
được hình thành trong cuối thế kỷ thứ mười tám bởi một băng nhóm chiến binh
đứng đầu bởi một người gọi là Isma’il, và nó đã vẫn độc lập cho đến khi được
hợp nhất vào Đế chế Anh trong năm 1884. Các vua và nhân dân Taqali đã biết đến
chữ viết Arab, nhưng nó đã không được sử dụng – trừ bởi các vua, cho việc liên lạc
bên ngoài với các chính thể khác và thư từ ngoại giao. Đầu tiên tình hình này
có vẻ rất khó hiểu. Tường thuật truyền thống về nguồn gốc của chữ viết ở
Mesopotamia là, nó đã được phát triển bởi nhà nước để ghi thông tin, kiểm soát
người dân, và thu thuế. Chẳng phải nhà nước Taqali đã không quan tâm đến việc
này?
Những vấn đề này được nghiên cứu bởi sử gia Janet Ewald vào cuối
các năm 1970 khi bà đã thử tái dựng lịch sử của nhà nước Taqali. Một phần của
câu chuyện là, các công dân đã chống lại việc sử dụng chữ viết bởi vì họ đã sợ
rằng nó được dùng để kiểm soát các nguồn lực, như đất đai có giá trị, bằng cách
cho phép nhà nước đòi quyền sở hữu. Họ cũng đã sợ rằng nó sẽ dẫn đến sự đánh
thuế có hệ thống hơn. Triều đại mà Isma’il khởi động đã không quện lại thành
một nhà nước hùng mạnh. Cho dù ông đã có muốn, nhà nước đã không đủ mạnh để áp
đặt ý chí của nó lên trên những sự phản đối của các công dân. Nhưng đã có các
nhân tố khác, tế nhị hơn, đang tác động. Các elite khác nhau cũng chống đối sự
tập trung hóa chính trị, chẳng hạn, thích giao tiếp bằng lời hơn bằng văn bản
với các công dân, bởi vì việc này đã cho phép họ tự do định đoạt một cách tối
đa. Khó có thể rút lại hay từ chối các luật hay các mệnh lệnh thành văn và cũng
khó để thay đổi chúng; chúng tạo ra các điểm mốc chuẩn mà các elite cai trị có
thể muốn đảo ngược. Như thế cả những người bị trị lẫn những kẻ cai trị của
Taqali đều không thấy việc đưa chữ viết vào là có lợi cho họ. Kẻ bị trị đã sợ
những người cai trị sẽ dùng nó ra sao, và bản thân những người cai trị thấy sự
thiếu chữ viết như sự giúp đỡ cho sự nắm quyền lực khá bấp bênh của họ. Chính
trị của Taqali đã là cái giữ chữ viết không được đưa vào. Thế nhưng những người
Somali thậm chí đã có ít giới elite được xác định rõ, khi so với vương quốc Taqali,
nên hoàn toàn có vẻ hợp lý rằng cùng các lực đã kiềm chế việc họ sử dụng chữ
viết và các công nghệ cơ bản khác.
Trường hợp Somali cho thấy các hệ quả của sự thiếu tập trung hóa
chính trị đối với tăng trưởng kinh tế. Tài liệu lịch sử không ghi lại các
trường hợp về các nỗ lực để tạo ra sự tập trung hóa như vậy ở Somalia . Tuy
nhiên, là rõ vì sao việc này đã rất khó. Để tập trung hóa về mặt chính trị đã
phải có nghĩa rằng thị tộc nào đó phải chịu sự kiểm soát của các thị tộc khác.
Nhưng họ đã từ chối bất cứ sự thống trị nào như vậy, và sự từ bỏ quyền lực của
họ mà điều này đòi hỏi; sự cân bằng sức mạnh quân sự trong xã hội cũng làm cho
khó để tạo ra các thể chế tập trung như vậy. Thực ra, rất có khả năng là bất cứ
nhóm hay thị tộc nào thử tập trung quyền lực sẽ không chỉ phải đối mặt với sự
chống đối khốc liệt mà cũng sẽ mất quyền lực và đặc quyền hiện tồn của nó. Như
một hệ quả của sự thiếu tập trung hóa chính trị và sự thiếu an toàn cơ bản của
các quyền tài sản bị kéo theo, xã hội Somali đã chẳng bao giờ tạo ra các khuyến
khích để đầu tư vào các công nghệ nâng cao năng suất. Khi quá trình công nghiệp
hóa đã đang tiến triển ở các phần khác của thế giới trong thế kỷ thứ mười chín
và đầu thế kỷ thứ hai mươi, thì những người Somali mang mối thù hận và tự lo liệu
cho cuộc sống của họ, và sự lạc hậu kinh tế của họ đã trở nên ăn sâu thêm.
SỰ LẠC HẬU KÉO DÀI
Cách mạng Công nghiệp đã tạo ra một bước ngoặt biến đổi cho toàn
bộ thế giới trong thế kỷ thứ mười chín và xa hơn: các xã hội, mà đã cho phép và
đã tạo khuyến khích cho các công dân của mình đầu tư vào các công nghệ mới, đã
có thể phát triển nhanh chóng. Nhưng nhiều xã hội quanh thế giới đã không làm
được thế – hay đã chọn một cách tường minh để không làm thế. Các quốc gia dưới
ách của các thể chế chính trị và kinh tế khai thác đã không tạo ra các khuyến
khích như vậy. Tây Ban Nha và Ethiopia
cung cấp các thí dụ nơi sự kiểm soát chuyên chế đối với các thể chế chính trị
và các thể chế kinh tế khai thác bị kéo theo đã bóp nghẹt các khuyến khích kinh
tế trước xa buổi bình minh của thế kỷ thứ mười chín. Kết quả đã giống nhau
trong các chế độ chuyên chế khác – thí dụ, ở Áo-Hungary, Nga, Đế chế Ottoman,
và Trung Quốc, mặc dù trong các trường hợp này các nhà cai trị, bởi vì nỗi sợ
sự phá hủy sáng tạo, đã không chỉ sao lãng cổ vũ tiến bộ kinh tế mà còn đưa ra
các bước cụ thể để cản trở sự mở rộng công nghiệp và việc đưa các công nghệ mới
vào mà sẽ dẫn đến công nghiệp hóa.
Chính thể chuyên chế không phải là hình thức duy nhất của các thể
chế chính trị khai thác và đã không là nhân tố duy nhất ngăn công nghiệp hóa.
Các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm cần đến mức độ nào đó của sự tập trung
hóa chính trị sao cho nhà nước có thể thực thi luật pháp và trật tự, ủng hộ các
quyền tài sản, và cổ vũ hoạt động kinh tế khi cần thiết bằng đầu tư vào các
dịch vụ công. Thế nhưng ngay cả hiện nay, nhiều quốc gia, như Afghanistan,
Haiti, Nepal, và Somalia, có các nhà nước mà không có khả năng duy trì trật tự
thô sơ nhất, và các khuyến khích kinh tế hầu như bị hủy hoại. Trường hợp của Somalia minh
họa bằng cách nào quá trình công nghiệp hóa cũng đã bỏ qua các xã hội như vậy.
Sự tập trung hóa chính trị bị chống lại vì cùng lý do mà các chế độ chuyên chế
chống lại sự thay đổi: nỗi sợ thường được đặt đúng chỗ rằng sự thay đổi sẽ phân
bổ lại quyền lực từ những người đang thống trị hôm nay sang các cá nhân và các
nhóm mới. Như thế, một chính thể chuyên chế cản các bước đi theo hướng chủ
nghĩa đa nguyên và sự thay đổi kinh tế, các elite truyền thống và các thị tộc
thống trị các xã hội mà không có nhà nước tập trung cũng làm vậy. Như một hệ
quả, các xã hội vẫn thiếu sự tập trung hóa như vậy trong các thế kỷ thứ mười
tám và mười chín đã đặc biệt bất lợi trong thời đại công nghiệp.
Trong khi nhiều thứ khác nhau của các thể chế khai thác trải từ
chính thể chuyên chế đến các nhà nước với ít tập trung hóa đã không tận dụng
được lợi thế của sự mở rộng công nghiệp, bước ngoặt của Cách mạng Công nghiệp
đã có những tác động rất khác trong các phần khác của thế giới. Như chúng ta sẽ
thấy trong chương 10, các xã hội mà đã có các bước theo hướng các thể chế bao
gồm, như Hoa Kỳ và Australia, và các xã hội nơi chính thể chuyên chế đã bị
thách thức nghiêm trọng hơn, như Pháp và Nhật Bản, đã tận dụng được các cơ hội
kinh tế mới này và đã bắt đầu một quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh. Như thế,
hình mẫu thông thường của sự tương tác giữa một bước ngoặt và những khác biệt
thể chế hiện tồn dẫn đến sự phân kỳ thêm nữa về thể chế chính trị và kinh tế đã
diễn ra lần nữa trong thế kỷ thứ mười chín, và lần này với một tiếng nổ thậm
chí còn lớn hơn và các tác động cơ bản hơn lên sự thịnh vượng và nghèo khó của
các quốc gia.
9.SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC
GIA VỊ VÀ TỘI DIỆT CHỦNG
QUẦN ĐẢO MOLUCCA ở Indonesia
hiện đại gồm ba nhóm đảo. Đầu thế kỷ thứ mười bảy, bắc Molucca đã là chỗ ở cho
ba vương quốc độc lập, các vương quốc Tidore, Ternate ,
và Bacan. Giữa Molucca đã là xứ sở của vương quốc đảo Ambon .
Ở phía nam là các đảo Banda, một quần đảo nhỏ chưa được thống nhất về mặt chính
trị.
Mặc dù có vẻ xa lạ đối với chúng ta hiện nay, quần đảo
Molucca khi đó đã là trung tâm đối với thương mại thế giới với tư cách là những
nhà sản xuất duy nhất các gia vị có giá trị đinh hương, mace (gia vị làm từ vỏ
khô của hạt nhục đậu khấu), và nutmeg (nhục đậu khấu). Trong các thứ này nutmeg
và mace chỉ trồng ở các đảo Banda. Dân cư của các đảo này đã sản xuất và xuất khẩu
các gia vị hiếm này để đổi lấy thực phẩm và các hàng hóa chế tác đến từ đảo
Java, từ trung tâm xuất nhập khẩu Melaka ở Bán đảo Malaysia, và từ Ấn Độ, Trung
Quốc, và Arabia.
Tiếp xúc đầu tiên mà các cư dân đã có với những người Âu châu đã
là trong thế kỷ thứ mười sáu, với các thủy thủ Bồ Đào Nha những người đến mua
gia vị. Trước đó gia vị đã phải chuyển qua Trung Đông, qua các con đường thương
mại bị Đế chế Ottoman kiểm soát. Những người Âu châu đã tìm kiếm một lối quanh
châu Phi hay qua Đại Tây Dương để có được sự tiếp cận trực tiếp đến các Đảo Gia
Vị và việc buôn bán gia vị. Thủy thủ Bồ Đào Nha Bartolemeu Dias đã đi vòng
quanh Mũi Hảo Vọng năm 1488, và Vasco de Gama đã tới Ấn Độ cùng bằng con đường
đó trong năm 1498. Bây giờ lần đầu tiên những người Âu châu đã có con đường độc
lập của họ đến các Đảo Gia Vị.
Những người Bồ Đào Nha đã ngay lập tức bắt đầu nhiệm vụ thử kiểm
soát buôn bán gia vị. Họ đã chiếm Melaka năm 1511. Nằm ở vị trí chiến lược bên
phía tây của Bán đảo Malaysia, các nhà buôn từ khắp Đông Nam Á đã đến đây để
bán gia vị của họ cho các nhà buôn khác, các nhà buôn Ấn Độ, Trung Quốc, Arab,
những người sau đó chuyển chúng đi nơi khác, đến phương Tây. Như khách lữ hành
Bồ Đào Nha diễn đạt trong năm 1515: “Thương mại và sự buôn bán giữa các quốc gia
suốt cả ngàn hải lý ở mọi nơi đều phải đến Melaka … Bất kể ai là chúa tể của
Melaka người đó để tay lên cổ họng Venice .”
Với Melaka trong tay họ, những người Bồ Đào Nha đã thử một cách có
hệ thống để có được một sự độc quyền về buôn bán gia vị có giá trị. Họ đã thất
bại.
Các đối thủ mà họ đối mặt đã không phải là không đáng kể. Giữa các
thế kỷ thứ mười bốn và mười sáu, đã có nhiều phát triển kinh tế ở Đông Nam Á
dựa trên buôn bán gia vị. Các thành-quốc như Aceh, Banten, Melaka, Makassar,
Pengu, và Brunei đã mở rộng nhanh chóng, sản xuất và xuất khẩu gia vị cùng với
các sản phẩm khác như gỗ cứng.
Các nhà nước này đã có các hình thức chính phủ chuyên chế giống
như ở châu Âu trong cùng thời kỳ. Sự phát triển của các thể chế chính trị đã
được kích thích bởi các quá trình tương tự, kể cả sự thay đổi công nghệ trong
các phương pháp chiến tranh và thương mại quốc tế. Các thể chế nhà nước đã trở
nên tập trung hơn, với một vị vua ở trung tâm đòi quyền lực tuyệt đối. Giống
các nhà cai trị chuyên chế ở châu Âu, các vị vua Đông Nam Á đã dựa nhiều vào
thu nhập từ buôn bán, cả tự mình tham gia buôn bán lẫn cấp độc quyền cho các
elite địa phương và nước ngoài. Như ở châu Âu chuyên chế, việc này đã tạo ra sự
tăng trưởng kinh tế nào đó, nhưng đã là một tập hợp còn xa mới lý tưởng của các
thể chế kinh tế cho sự thịnh vượng kinh tế, với các rào cản tham gia đáng kể và
nhất là các quyền tài sản không an toàn. Nhưng quá trình thương mại hóa được
tiến hành ngay cả khi người Bồ Đào Nha đã thử thiết lập thế thống trị ở Ấn Độ
Dương.
Sự hiện diện của những người Âu châu đã phình lên và đã có tác
động lớn hơn nhiều với sự đến của người Hà Lan. Những người Hà Lan đã mau chóng
nhận ra rằng sự độc quyền cung ứng các gia vị có giá trị của Molucca sẽ có lợi
nhuận hơn rất nhiều so với việc cạnh tranh với các nhà buôn địa phương hay Âu
châu khác. Trong năm 1600 họ đã thuyết phục nhà cai trị của Ambon để ký một
thỏa thuận độc quyền mà đã cho họ độc quyền về buôn bán đinh hương ở Ambon. Với
việc thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan trong năm 1602, những người Hà Lan thử
chiếm toàn bộ việc buôn bán gia vị và loại bỏ các đối thủ của họ, bằng đủ mọi
cách, đã có chiều hướng tốt lên cho những người Hà Lan và tồi đi cho Đông Nam
Á. Công ty Đông Ấn Hà Lan đã là công ty cổ phần Âu châu thứ hai, tiếp sau Công ty
Đông Ấn Anh, các cột mốc chính của sự phát triển công ty hiện đại, mà rồi sau
đó sẽ đóng một vai trò lớn trong tăng trưởng công nghiệp Âu châu. Nó cũng đã là
công ty thứ hai có quân đội riêng của mình và có sức mạnh để tiến hành chiến
tranh và thuộc địa hóa các vùng đất nước ngoài. Với sức mạnh quân sự của công
ty được sử dụng bây giờ, những người Hà Lan đã tiếp tục để loại tất cả những kẻ
xen ngang tiềm năng để thực thi thỏa ước của họ với nhà cai trị Ambon. Họ đã
chiếm một pháo đài then chốt do những người Bồ Đào Nha giữ trong năm 1605 và
bằng vũ lực đã đuổi tất cả các nhà buôn khác. Sau đó họ đã mở rộng lên bắc
Molucca, buộc các nhà cai trị Tidore, Ternate, và Bacan thống nhất rằng không
đinh hương nào được trồng hay buôn bán trong các lãnh thổ của họ. Thỏa ước mà
họ áp đặt lên Ternate thậm chí đã cho phép những người Hà Lan đến và phá hủy
bất cứ cây đinh hương nào họ thấy ở đó.
Ambon đã được cai trị theo cách giống phần lớn châu Âu và châu Mỹ
trong thời đó. Các công dân Ambon đã cống nạp cho nhà cai trị và phải chịu làm
việc cưỡng bức. Những người Hà Lan đã tiếp quản và tăng cường các hệ thống này
để khai thác nhiều lao động và đinh hương hơn từ hòn đảo. Trước khi những người
Hà Lan đến, các đại gia đình đã nộp đồ cống bằng đinh hương cho các elite Ambon.
Những người Hà Lan bây giờ quy định rằng mỗi hộ gia đình gắn với đất và phải
trồng một số cây đinh hương nhất định. Các hộ gia đình cũng bắt buộc phải lao
động cưỡng bức cho những người Hà Lan.
Những người Hà Lan cũng đã nắm quyền kiểm soát các Đảo Banda, dự
định lần này để độc quyền mace và nutmeg. Nhưng các Đảo Banda đã được tổ chức
rất khác với Ambon. Chúng bao gồm nhiều thành-quốc tự trị nhỏ, và đã không có
cấu trúc thứ bậc xã hội hay cấu trúc chính trị. Các nhà nước nhỏ này, trong
thực tế không hơn các thị trấn nhỏ, được vận hành bởi các cuộc họp làng của các
công dân. Đã không có nhà chức trách trung ương người mà những người Hà Lan đã
có thể ép buộc ký một thỏa ước độc quyền và đã không có hệ thống cống nạp nào
để họ tiếp quản và chiếm toàn bộ cung nutmeg và mace. Đầu tiên điều này đã có
nghĩa rằng những người Hà Lan đã phải cạnh tranh với các nhà buôn Anh, Bồ Đào
Nha, Ấn Độ, và Trung Quốc, để mất gia vị cho các đối thủ cạnh tranh khi họ đã
không trả giá đủ cao. Các kế hoạch ban đầu về dựng lên một sự độc quyền về mace
và nutmeg đã bị tan vỡ, thống đốc Hà Lan của Batavia, Jan Pieterszoon Coen, đã
nghĩ ra một kế hoạch khác. Coen đã lập ra Batavia, trên đảo Java, như thủ đô
mới của Công ty Đông Ấn Hà Lan trong năm 1618. Trong năm 1621 ông ta đã đi đến Banda
với một đội tàu và tiến hành tàn sát hầu như toàn bộ dân cư của các đảo, có lẽ
khoảng mười lăm ngàn người. Tất cả các nhà lãnh đạo của họ đã bị hành hình với
những người còn lại, và chỉ để lại vài người còn sống, đủ để duy trì know-how
cần thiết cho sản xuất mace và nutmeg. Sau khi cuộc diệt chủng này hoàn tất,
rồi Coen đã tiếp tục tạo ra cấu trúc chính trị và kinh tế cần thiết cho kế
hoạch của ông ta: một xã hội đồn điền. Các hòn đảo được chia ra thành sáu mươi
tám mảnh, mà được trao cho sáu mươi tám người Hà Lan, hầu hết là những người đã
hay đang là nhân viên của Công ty Đông Ấn Hà Lan. Những chủ đồn điền này được
số ít những người Banda sống sót dạy làm thế nào để sản xuất gia vị và đã có
thể mua nô lệ từ Công ty Đông Ấn đến ở các đảo bây giờ trống không để sản xuất
gia vị, mà sẽ phải bán lại cho công ty với giá cố định.
Các thể chế khai thác được những người Hà Lan tạo ra ở các Đảo Gia
Vị đã có các kết quả mong muốn, mặc dù, ở Banda với cái giá của mười lăm ngàn
sinh mạng vô tội và việc thiết lập một tập các thể chế chính trị và kinh tế mà
buộc các đảo này không phát triển được. Vào cuối thế kỷ thứ mười bảy, những
người Hà Lan đã làm giảm cung của các gia vị này khoảng 60 phần trăm và giá
nutmeg đã tăng gấp đôi.
Những người Hà Lan đã mở rộng chiến lược được họ hoàn thiện ở
Molucca ra toàn vùng, với những hệ lụy sâu sắc cho các thể chế chính trị và
kinh tế của phần còn lại của Đông Nam Á. Sự mở rộng thương mại lâu đời của
nhiều nhà nước trong vùng, mà đã bắt đầu từ thế kỷ thứ mười bốn, đã bị đảo ngược.
Ngay cả các chính thể, mà đã không bị thuộc địa hóa trực tiếp và bị đè nát bởi
Công ty Đông Ấn Hà Lan, cũng đã quay sang hướng nội và từ bỏ thương mại. Sự
thay đổi kinh tế và chính trị vừa mới nảy sinh ở Đông Nam Á đã bị tạm dừng trên
con đường của nó.
Để tránh sự đe dọa của Công ty Đông Ấn Hà Lan, nhiều nhà nước đã
từ bỏ sản xuất các cây trồng cho xuất khẩu và ngừng hoạt động thương mại. Sự tự
cấp tự túc là an toàn hơn sự đối mặt với người Hà Lan. Trong năm 1620 nhà nước
Banten, trên đảo Java, đã đẵn những cây hồ tiêu của nó với hy vọng rằng việc
này sẽ khiến những người Hà Lan để cho nó yên. Khi một nhà buôn Hà Lan đến thăm
Maguindanao, ở nam Phillipines, trong năm 1686, người ta bảo ông, “Nutmeg và
đinh hương có thể mọc ở đây hệt như ở Malaku. Chúng không có ở đó bây giờ bởi
vì Rajna già đã phá sạch chúng trước khi ông chết. Ông đã sợ Công ty Hà Lan sẽ
đến để dánh nhau với họ về nó.” Điều mà một nhà buôn đã nghe được về nhà cai
trị Maguindanao trong năm 1699 cũng tương tự: “Ông đã cấm tiếp tục trồng hồ tiêu
để cho ông không thể bị dính líu vào chiến tranh dù với công ty [Hà Lan] hay
với kẻ thống trị khác.” Đã có sự thoái-đô thị hóa và thậm chí sự giảm dân số.
Trong năm 1635 những người Miến Điện đã chuyển thủ đô của họ từ Pegu, ở gần bờ
biển, đến Ava, sâu vào trong đất liền trên Sông Irrawaddy.
Chúng ta không biết con đường phát triển của các nước Đông Nam Á
đã là con đường nào giả như không có sự xâm lược của Hà Lan. Họ có thể đã phát
triển nhãn mác chính thể chuyên chế của riêng họ, họ có thể vẫn ở trong cùng
trạng thái mà họ đã ở vào cuối thế kỷ thứ mười sáu, hay họ đã có thể tiếp tục
sự thương mại hóa của họ bằng cách dần dần chấp nhận các thể chế ngày càng bao
gồm hơn. Nhưng như ở Molucca, chủ nghĩa thuộc địa Hà Lan đã làm thay đổi cơ bản
sự phát triển kinh tế và chính trị của họ. Người dân ở Đông Nam Á đã ngừng buôn
bán, chuyển sang hướng nội, và trở nên chuyên chế hơn. Trong hai thế kỷ tiếp
theo, họ đã không ở trong vị thế nào để tận dụng lợi thế của những đổi mới mà
sẽ xuất hiện trong Cách mạng Công nghiệp. Và cuối cùng sự rút lui của họ khỏi
thương mại đã không cứu được họ khỏi những người Âu châu; vào cuối thế kỷ thứ
mười tám, gần như tất cả đã là phần của các đế chế thuộc địa Âu châu.
CHÚNG TA ĐÃ THẤY ở chương 7 sự mở rộng của châu Âu vào Đại Tây
Dương đã tiếp nhiên liệu ra sao cho sự nổi lên của các thể chế bao gồm ở Anh.
Nhưng như được minh họa bởi kinh nghiệm của Molucca dưới thời Hà Lan, sự mở
rộng này đã gieo các hạt chậm phát triển ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới
bằng cách áp đặt các thể chế khai thác, hay tăng cường thêm các thể chế khai
thác hiện tồn. Những việc này hoặc một cách trực tiếp hay một cách gián tiếp đã
tiêu diệt hoạt động thương mại và công nghiệp manh nha trên khắp thế giới hay
chúng đã duy trì mãi các thể chế ngăn chặn công nghiệp hóa. Như một kết quả,
khi công nghiệp hóa lan ra một số phần của thế giới, các nơi đã là bộ phận của
các đế chế thuộc địa Âu châu đã chẳng có cơ hội nào để hưởng lợi từ những công
nghệ mới này.
THỂ CHẾ QUÁ THÔNG THƯỜNG
Ở Đông Nam Á, sự mở rộng của sức mạnh hải quân và thương mại Âu
châu trong thời kỳ đầu hiện đại đã tước mất một thời kỳ hứa hẹn về mở rộng kinh
tế và thay đổi thể chế. Trong cùng thời kỳ khi Công ty Đông Ấn Hà Lan mở rộng,
một loại buôn bán rất khác đang tăng cường ở châu Phi: buôn bán nô lệ.
Ở Hoa Kỳ, chế độ nô lệ miền nam đã thường được nhắc đến như “thể
chế đặc biệt.” Nhưng về mặt lịch sử, như học giả kinh điển vĩ đại Moses Findlay
đã chỉ ra, chế độ nô lệ chẳng hề đặc biệt chút nào, nó đã hiện diện hầu như
trong mọi xã hội. Nó đã, như chúng ta đã thấy ở trước, là căn bệnh địa phương ở
La Mã cổ xưa và ở châu Phi, một nguồn nô lệ lâu đời cho châu Âu, mặc dù không
phải là nguồn duy nhất.
Trong thời kỳ La Mã các nô lệ đến từ những người Slavic quanh Biển
Đen, từ Trung Đông, và cũng từ Bắc Âu. Nhưng vào năm 1400 những người Âu châu
đã chấm dứt bắt nhau làm nô lệ. Châu Phi, tuy vậy, như chúng ta đã thấy ở
chương 6, đã không trải qua sự chuyển đổi từ chế độ nô lệ sang chế độ nông nô
như châu Âu trung cổ đã chuyển. Trước đầu thời kỳ hiện đại, đã có sự buôn bán
nô lệ sôi động ở Đông Phi, và số đông nô lệ đã được vận chuyển ngang Sahara đến
Bán đảo Arabia. Hơn nữa, các quốc gia Tây Phi trung cổ lớn, Mali, Ghana, và
Songhai đã sử dụng nhiều nô lệ trong chính phủ, quân đội, và nông nghiệp, chấp
nhận theo các mô hình từ các quốc gia Hồi giáo Bắc Phi mà họ buôn bán với.
Sự phát triển của các thuộc địa đồn điền mía ở Caribe bắt đầu vào
đầu thế kỷ thứ mười bảy đã là cái dẫn đến một sự leo thang đầy kịch tính của sự
buôn bán nô lệ quốc tế và đến một sự gia tăng chưa từng có về tầm quan trọng
của chế độ nô lệ ở bên trong bản thân châu Phi. Trong thế kỷ thứ mười sáu, có
lẽ khoảng 300.000 nô lệ đã được bán qua Đại Tây Dương. Họ đến chủ yếu từ Trung
Phi, với sự dính líu sâu của Kongo và những người Bồ Đào Nha đóng xa hơn về
phía nam ở Luanda, bây giờ là thủ đô của Angola. Trong thời gian này, buôn bán
xuyên Sahara vẫn đã lớn hơn, có lẽ với khoảng 550.000 người châu Phi chuyển lên
phương bắc làm nô lệ. Trong thế kỷ thứ mười bảy, tình hình đã đảo ngược. Khoảng
1.350.000 người châu Phi đã được bán như nô lệ trong thương mại Đại Tây Dương,
đa số bây giờ được chuyển sang châu Mỹ. Con số liên quan đến buôn bán xuyên
Sahara đã không thay đổi một cách tương đối. Thế kỷ thứ mười tám đã thấy một sự
gia tăng đột ngột nữa, với khoảng 6.000.000 nô lệ được chuyển qua Đại Tây Dương
và có thể 700.000 qua Sahara. Cộng các số trong các thời kỳ và các phần của
châu Phi, hơn 10.000.000 người châu Phi đã bị chuyển ra khỏi châu lục như các
nô lệ.
Bản đồ 15 (trang sau) cho một cảm nhận nào đó về quy mô của buôn
bán nô lệ. Sử dụng các đường biên giới hiện đại, nó miêu tả sự ước lượng mức độ
tích lũy của tình trạng nô lệ giữa năm 1400 và 1900 như phần trăm của dân số
trong năm 1400. Các màu thẫm hơn cho thấy tình trạng nô lệ mạnh hơn. Thí dụ, ở
Angola, Benin, Ghana, và Togo, tổng tích lũy của xuất khẩu nô lệ lớn hơn toàn
bộ dân số của nước đó trong năm 1400.
Sự xuất hiện đột ngột của những người Âu châu khắp vùng ven
biển Tây và Trung Phi hăm hở mua nô lệ không còn cách nào khác đã có một tác
động biến đổi lên các xã hội Phi châu. Hầu hết nô lệ, mà được chở sang châu Mỹ,
đã là những người bị bắt trong chiến tranh và rồi được chở ra ven biển. Sự tăng
lên của chiến tranh đã được thổi bùng bởi lượng nhập khẩu khổng lồ về súng và
đạn dược, mà những người Âu châu đổi lấy nô lệ. Vào năm 1730 khoảng 180.000
súng đã được nhập khẩu mỗi năm chỉ dọc theo duyên hải Tây Phi, và giữa 1750 và
đầu thế kỷ mười tám, riêng những người Anh đã bán giữa 283.000 và 394.000 súng
một năm. Giữa năm 1750 và 1807, người Anh đã bán một lượng đặc biệt 22.000 tấn
thuốc súng, khiến cho trung bình là 384.000 kg một năm, cùng với 91.000 kg chì
mỗi năm. Xa hơn xuống phía nam, việc buôn bán cũng sôi động như thế. Bên bờ
Loango, bắc Vương quốc Kongo, những người Âu châu đã bán 50.000 súng mỗi năm.
Tất cả các cuộc chiến tranh và xung đột này đã không chỉ gây ra
những thiệt hại to lớn về sinh mệnh và sự đau khổ con người mà cũng khởi động
một con đường đặc biệt của sự phát triển thể chế ở châu Phi. Trước đầu thời kỳ
hiện đại, các xã hội Phi châu đã ít tập trung về mặt chính trị hơn các xã hội
Á-Âu. Hầu hết các chính thể đã có quy mô nhỏ, với các thủ lĩnh bộ lạc và có lẽ
các ông vua kiểm soát đất và các nguồn lực. Nhiều xã hội, như chúng ta đã thấy
ở Somalia, đã không hề có cấu trúc quyền lực chính trị có thứ bậc nào cả. Sự
buôn bán nô lệ đã khởi động hai quá trình chính trị có hại. Thứ nhất, nhiều
chính thể ban đầu đã trở nên chuyên chế hơn, được tổ chức xung quanh một mục
đích duy nhất: nô lệ hóa và bán những người khác cho bọn buôn nô lệ Âu châu.
Thứ hai, như một hệ quả nhưng, nghịch lý thay, đối nghịch với quá trình thứ
nhất, việc đánh nhau và bắt nhau làm nô lệ cuối cùng đã phá hủy bất cứ trật tự
và quyền lực nhà nước hợp pháp nào đã tồn tại ở châu Phi hạ-Sahara. Trừ chiến tranh
ra, các nô lệ cũng đã bị bắt cóc và bắt bởi các cuộc đột kích cướp bóc nhỏ.
Luật cũng đã trở thành một công cụ của sự nô dịch hóa. Bất luận phạm tội gì,
hình phạt đã là bắt làm nô lệ. Nhà buôn Anh Francis Moore đã quan sát các hậu
quả của tình trạng này dọc bờ biển Senegambia ở Tây Phi năm trong các năm 1730:
Kể từ khi việc buôn bán nô lệ này được sử dụng, mọi sự trừng phạt
bị biến thành sự nô lệ; có một lợi thế về những sự kết tội như vậy, chúng làm
căng đối với các tội phạm rất khắc nghiệt, nhằm được lợi từ việc bán phạm nhân.
Không chỉ tội giết người, trộm cắp và tội ngoại tình bị trừng phát bằng cách
bán kẻ phạm tội làm nô lệ, mà mọi vụ lặt vặt cũng bị trừng phạt theo cùng cách.
Các thể chế, ngay cả các thể chế tôn
giáo, đã trở nên đồi bại bởi mong muốn để bắt và bán các nô lệ. Một thí dụ là
bậc thánh nổi tiếng tại Archukwa, ở đông Nigeria. Bậc thánh được tin một cách
rộng rãi rằng ngài nói thay một một vị thần quan trọng trong vùng được kính
trọng bởi các nhóm sắc tộc chính ở địa phương, những người ljaw, lbibio và
lgbo. Người ta đã tiếp cận bậc thánh để giải quyết các tranh chấp và xét xử
những bất đồng. Các nguyên đơn, những người đi đến Archukwa để gặp bậc thánh,
đã phải từ thị trấn xuống một hẻm núi của Sông Cross, nơi bậc thánh ở trong một
hang cao, mà mặt trước hang được xếp bằng các sọ người. Các giáo sĩ của bậc
thánh, liên minh với những kẻ buôn nô lệ và các nhà buôn Aro, sẽ thực thi quyết
định của bậc thánh. Thường việc này dính líu đến họ bị bậc thánh “nuốt”, mà
thực ra đã có nghĩa rằng một khi họ đã qua hang, họ bị dẫn xuống Sông Cross và
xuống các tàu của những người Âu châu đang đợi. Quá trình này, mà trong đó mọi
luật và tập quán bị bóp méo và bị vi phạm để bắt các nô lệ và nhiều nô lệ hơn,
đã có các tác động tàn phá ghê gớm lên sự tập trung hóa chính trị, mặc dù tại
một số nơi nó đã dẫn đến sự nổi lên của các nhà nước hùng mạnh mà raison
d’être (lý do tồn
tại) chủ yếu của nó đã là cướp bóc và bắt làm nô lệ. Bản thân Vương quốc Kongo
có lẽ đã là nhà nước Phi châu đầu tiên trải nghiệm một sự biến hóa thành một
nhà nước nô lệ hóa, cho đến khi nó bị phá hủy bởi nội chiến. Các nhà nước nô lệ
hóa khác nảy sinh một cách nổi bật ở Tây Phi và đã bao gồm Oyo ở Nigeria,
Dahomey ở Benin, và sau đó Asante ở Ghana.
Sự mở rộng của nhà nước Oyo giữa thế kỷ thứ mười bảy, chẳng hạn,
đã liên quan trực tiếp đến sự gia tăng của xuất khẩu nô lệ ở miền duyên hải.
Sức mạnh của nhà nước đã là kết quả của một cuộc cách mạng quân sự mà đã dính
líu đến nhập khẩu ngựa từ phương bắc và sự hình thành của một đội kỵ binh hùng
mạnh mà đã có thể sát hại các quân đội đối lập. Khi nhà nước Oyo bành trướng về
phía nam theo hướng bờ biển, nó đã nghiền nát các chính thể ở giữa và đã bán
nhiều cư dân của chúng làm nô lệ. Trong giai đoạn giữa 1690 và 1740, Oyo đã xác
lập độc quyền của nó ở bên trong cái được biết đến như Duyên hải Nô lệ. Được
ước lượng là 80 đến 90 phần trăm nô lệ được bán trên miền duyên hải đã là kết
quả của những cuộc chinh phục này. Một mối liên hệ đầy kịch tính tương tự giữa
chiến tranh và cung ứng nô lệ đã đến từ miền tây xa hơn trong thế kỷ thứ mười
tám, trên Duyên hải Vàng, vùng là Ghana hiện nay. Sau năm 1700 nhà nước Asante
đã bành trướng từ nội địa, phần lớn theo cùng cách như nhà nước Oyo đã bành
trướng trước đó. Trong nửa đầu thế kỷ thứ mười tám, sự bành trướng này đã kích
động cái gọi là các cuộc chiến tranh Akan, khi Asante lần lượt đánh bại hết nhà
nước độc lập này đến nhà nước khác. Nhà nước cuối cùng, Gyaman, đã bị chinh
phục năm 1747. Phần lớn trong số 375.000 nô lệ được xuất khẩu từ Duyên hải Vàng
đã là những người bị bắt trong các cuộc chiến này.
Có lẽ tác động rõ rệt nhất của sự khai thác ồ ạt sức người này đã
mang tính nhân khẩu học. Khó để biết với bất cứ sự chắc chắn nào về dân số của
châu Phi đã là bao nhiêu trước giai đoạn hiện đại, nhưng các học giả đã đưa ra
các ước lượng có vẻ hợp lý khác nhau về tác động của buôn bán nô lệ lên dân số.
Sử gia Patrick Maning ước lượng rằng dân số của các vùng của Tây và Trung-Tây
châu Phi mà đã cung ứng nô lệ cho xuất khẩu đã là khoảng hai mươi hai đến hai mươi
lăm triệu người trong đầu thế kỷ thứ mười tám. Với giả thiết bảo thủ rằng trong
thế kỷ thứ mười tám và đầu thế kỷ thứ mười chín các vùng này đã có tỷ lệ tăng
dân số khoảng một nửa phần trăm một năm mà không có buôn bán nô lệ, Maning đã
ước lượng rằng dân số của vùng này trong năm 1850 đã phải ít nhất là bốn mươi
sáu đến năm mươi ba triệu. Trên thực tế, dân số đã là khoảng một nửa của con số
này.
Sự chênh lệch rất lớn này đã không chỉ là về khoảng tám triệu
người đã được xuất khẩu làm nô lệ từ khu vực này giữa 1700 và 1850, mà hàng
triệu người có khả năng đã bị giết bởi chiến tranh nội bộ liên miên nhằm bắt nô
lệ. Tình trạng nô lệ và buôn bán nô lệ ở châu Phi đã gây hỗn loạn thêm các cấu
trúc gia đình và hôn nhân và cũng đã có thể làm giảm khả năng sinh sản.
Bắt đầu trong cuối thế kỷ thứ mười tám, một phong trào mạnh mẽ đòi
bãi bỏ sự buôn bán nô lệ bắt đầu lấy được đà ở Anh, dẫn đầu bởi nhân vật có sức
thuyết phục quần chúng lớn William Wilberforce. Sau những thất bại lặp đi lặp
lại, những người đòi xóa bỏ đã thuyết phục được Quốc hội thông qua một dự luật
làm cho buôn bán nô lệ trở nên bất hợp pháp. Hoa Kỳ đã đi theo với biện pháp
tương tự trong năm tiếp theo. Tuy vậy, chính phủ Anh đã đi xa hơn: nó đã tìm
cách tích cực để thực thi biện pháp này bằng đóng hạm đội đặc biệt ở Đại Tây
Dương để diệt trừ sự buôn bán nô lệ. Mặc dù đã cần thời gian để cho biện pháp
này thực sự hữu hiệu, và mãi cho đến 1834 thì bản thân tình trạng nô lệ mới bị
bãi bỏ hết trên đế chế Anh, những ngày của sự buôn bán nô lệ qua Đại Tây Dương,
mà là phần lớn của toàn bộ việc buôn bán nô lệ, đã điểm.
Mặc dù sự chấm dứt của nạn buôn bán nô lệ sau 1807 đã làm giảm cầu
bên ngoài đối với các nô lệ từ châu Phi, việc này đã không có nghĩa rằng tác
động của tình trạng nô lệ lên các xã hội và các thể chế Phi châu tan biến đi
một cách như ma thuật. Nhiều nhà nước Phi châu đã được tổ chức xung quanh việc
nô lệ hóa, và việc nước Anh chấm dứt sự buôn bán nô lệ đã không làm thay đổi
thực tế này. Hơn nữa, tình trạng nô lệ đã trở nên phổ biến hơn nhiều ở bên
trong bản thân châu Phi. Những nhân tố này cuối cùng đã định hình sự phát triển
của châu Phi không chỉ trước mà cả sau 1807 nữa.
Khi xứ sở nô lệ tiến đến “thương mại hợp pháp,” một cụm từ được
đặt ra cho việc xuất khẩu các mặt hàng mới không gắn với buôn bán nô lệ từ châu
Phi. Các mặt hàng này bao gồm dầu cọ, nhân, lạc, ngà voi, cao su, và gum Arabic
(nhựa cây acacia). Khi thu nhập Âu châu và Bắc Mỹ tăng lên với sự mở rộng của
Cách mạng Công nghiệp, cầu về nhiều mặt hàng nhiệt đới này đã tăng đột ngột.
Hệt như các xã hội Phi châu đã năng nổ tận dụng những cơ hội do buôn bán nô lệ
tạo ra, họ đã cũng làm thế với thương mại hợp pháp. Nhưng họ đã làm như vậy
trong một bối cảnh đặc biệt, bối cảnh mà trong đó tình cảnh nô lệ là một cách
sống nhưng cầu bên ngoài đối với các nô lệ đã đột ngột cạn kiệt. Tất cả những
nô lệ này bây giờ làm gì khi không thể bán họ cho những người Âu châu? Câu trả
lời đã đơn giản: đã có thể đưa họ vào làm việc sinh lời, dưới sự cưỡng bức, ở
châu Phi, tạo ra các món mới của thương mại hợp pháp.
Một trong những thí dụ được ghi lại kỹ làm tư liệu đã là ở Asante,
ở Ghana hiện đại. Trước năm 1807, Đế chế Asante đã dính líu sâu vào việc bắt và
xuất khẩu nô lệ, mang họ xuống bờ biển để bán tại các lâu đài bán nô lệ lớn ở
Cape Coast và Elmina. Sau 1807, với sự lựa chọn này bị đóng lại, elite chính
trị Asante đã tổ chức lại nền kinh tế của họ. Thế nhưng việc bắt làm nô lệ và
tình trạng nô lệ đã không chấm dứt. Đúng hơn, các nô lệ được định cư ở các đồn
điền lớn, ban đầu xung quanh thủ đô Kumase, nhưng muôn hơn đã lan ra khắp đế
chế (tương ứng với hầu hết nội địa Ghana). Họ được sử dụng trong sản xuất vàng
và quả hạch kola để xuất khẩu, nhưng cũng nuôi trồng số lượng lớn thực phẩm và
đã được sử dụng nhiều như những người mang vác, vì Asante đã không sử dụng giao
thông có bánh xe. Xa hơn về phía đông, những sự thích nghi tương tự đã xảy ra.
Thí dụ, ở Dahomay nhà vua đã có các đồn điền cọ dầu lớn gần các cảng biển
Whydah và Porto Novo, tất cả đều dựa vào lao động nô lệ.
Cho nên việc bãi bỏ buôn bán nô lệ, thay cho việc khiến cho tình
trạng nô lệ ở châu Phi teo đi, thì đơn giản lại đã dẫn đến sự tái triển khai
các nô lệ, những người bây giờ được dùng ở bên trong châu Phi hơn là ở châu Mỹ.
Hơn nữa, nhiều thể chế chính trị, mà sự buôn bán nô lệ đã gây ra trong hai thế
kỷ trước, đã không thay đổi và các hình mẫu ứng xử vẫn còn dai dẳng. Thí dụ, ở
Nigeria trong các năm 1820 và 1830 Vương quốc Oyo một thời vĩ đại đã bị sụp đổ.
Nó đã bị làm cho xói mòn bởi các cuộc nội chiến và sự nổi lên của các thành-quốc
Yoruba, như Illorin và Ibadan, mà đã dính dáng trực tiếp đến buôn bán nô lệ, ở
phía nam của nó. Trong các năm 1830, thủ đô của Oyo bị cướp phá, và sau đó các
thành phố Yoruba đã tranh giành quyền lực với Dahomey vì sự thống trị khu vực.
Chúng đã chiến đấu một loạt các cuộc chiến tranh hầu như liên tục trong nửa đầu
của thế kỷ, mà đã gây ra cung nô lệ rất lớn. Cùng với việc này đã xảy ra các
vòng bình thường của sự bắt cóc và sự xử phạt bởi các bậc thần và sự cướp bóc
quy mô nhỏ. Sự bắt cóc đã là vấn đề đến mức ở một số phần của Nigeria các bậc
cha mẹ đã không dám để con mình chơi ở bên ngoài vì sợ chúng bị bắt và bị bán
làm nô lệ. Như một kết quả, tình trạng nô lệ, thay cho co lại, có vẻ đã mở rộng
ở châu Phi suốt thế kỷ thứ mười chín. Mặc dù khó kiếm được các số liệu chính
xác, nhiều tường thuật được viết bởi các khách lữ hành và các nhà buôn trong
thời gian này gợi ý rằng trong các vương quốc Tây Phi Ansante và Dahomey và
trong các thành-quốc Yoruba hơn nửa dân số đã là nô lệ. Có số liệu chính xác
hơn từ các hồ sơ thuộc địa Pháp ban đầu cho tây Sudan, một dải lớn của miền tây
châu Phi, trải từ Senegal, qua Mali và Burkina Faso, đến Niger và Chad. Tại
vùng này 30 phần trăm dân số đã bị bắt làm nô lệ trong năm 1900.
Hệt như với sự nổi lên của thương mại hợp pháp, sự đến của thuộc
địa hóa sau cuộc Tranh giành châu Phi đã không phá hủy tình trạng nô lệ ở châu
Phi. Mặc dù phần lớn sự thâm nhập Âu châu vào châu Phi đã được biện minh với lý
do rằng phải đấu tranh chống và xóa bỏ tình trạng nô lệ, thực tế đã là khác.
Trong hầu hết các phần của châu Phi thuộc địa, tình trạng nô lệ đã tiếp tục
đáng kể vào thế kỷ thứ hai mươi. Ở Sierra Leone, chẳng hạn, chỉ đến 1928 thì
tình trạng nô lệ cuối cùng mới bị xóa bỏ, cho dù thủ đô Freetown với cái tên
Thành phố Tự do ban đầu được thành lập vào cuối thế kỷ thứ mười tám như nơi trú
của các nô lệ được hồi hương từ châu Mỹ về. Sau đó nó đã trở thành một căn cứ
quan trọng cho hạm đội chống nô lệ của Anh và một xứ sở mới cho các nô lệ được
giải phóng từ các tàu chở nô lệ bị hải quân Anh bắt giữ. Ngay cả với biểu tượng
này, tình trạng nô lệ vẫn còn kéo dài ở Sierra Leone trong 130 năm. Liberia,
ngay nam Sierra Leone, cũng thế đã được thành lập cho các nô lệ Mỹ được giải
phóng trong các năm 1840. Thế nhưng ở đó, cũng thế, tình trạng nô lệ đã kéo dài
vào thế kỷ thứ hai mươi, mãi đến tận các năm 1960, đã được ước lượng rằng một
phần tư của lực lượng lao động đã bị cưỡng bức, sống và làm việc dưới các điều
kiện gần với tình trạng nô lệ. Căn cứ vào các thể chế kinh tế và chính trị khai
thác dựa trên buôn bán nô lệ, công nghiệp hóa đã không lan ra châu Phi
hạ-Sahara, mà đã trì trệ hay thậm chí đã trải qua sự chậm phát triển kinh tế
khi các phần khác của thế giới đang biến đổi nền kinh tế của họ.
TẠO RA MỘT NỀN KINH TẾ KÉP
Hệ thuyết “nền kinh tế kép” (“dual economy” paradigm), ban đầu
được Sir Athur Lewis đề xuất năm 1955, vẫn định hình cách mà hầu hết các nhà
khoa học xã hội nghĩ về các vấn đề kinh tế của các nước kém-phát triển. Theo
Lewis, nhiều nền kinh tế kém-phát triển hay chậm-phát triển có một cấu trúc kép
và được chia thành một khu vực hiện đại và một khu vực truyền thống. Khu vực
hiện đại, tương ứng với phần phát triển hơn của nền kinh tế, gắn liền với cuộc
sống đô thị, công nghiệp hiện đại, và việc sử dụng các công nghệ tiên tiến. Khu
vực truyền thống gắn với cuộc sống nông thôn, nông nghiệp, và các thể chế và
công nghệ “lạc hậu”. Các thể chế nông nghiệp lạc hậu bao gồm sở hữu chung về
đất, mà ngụ ý rằng thiếu quyền sở hữu tư nhân về đất. Lao động được sử dụng
không hiệu quả trong khu vực truyền thống đến mức, theo Lewis, nó đã có thể
được phân bổ lại sang khu vực hiện đại mà không làm giảm lượng mà khu vực nông
thôn có thể tạo ra. Đối với các thế hệ của các nhà kinh tế học phát triển, dựa
trên những thấu hiểu của Lewis, “vấn đề phát triển” đã có nghĩa rằng chuyển
người dân và các nguồn lực khỏi khu vực truyền thống, khỏi nông nghiệp và nông
thôn, sang khu vực hiện đại, công nghiệp và các đô thị. Năm 1979 Lewis đã được
giải Nobel vì công trình của ông về phát triển kinh tế.
Lewis và các nhà kinh tế học phát triển dựa trên công trình của
ông đã chắc chắn đúng trong nhận diện các nền kinh tế kép. Nam Phi đã là một
trong các thí dụ rõ nhất, tách thành một khu vực truyền thống lạc hậu và nghèo
nàn và một khu vực hiện đại sôi động và thịnh vượng. Ngay cả ngày nay nền kinh
tế kép do Lewis nhận diện vẫn ở khắp nơi tại Nam Phi. Một trong những cách đầy
kịch tính nhất để nhận thấy điều này là bằng cách đi ngang ranh giới giữa bang
KwaZulu-Natal, Natal trước kia, và bang Transkei. Đường ranh giới chạy theo con
Sông Lớn Kei. Bên phía đông con sông, ở Natal, dọc bờ biển, là các bất động sản
giàu có nhìn ra bãi biển trên dải rộng bãi biển đầy cát đẹp lộng lẫy. Nội địa
được phủ bằng các đồn điền mía xanh tươi tốt. Đường sá thật đẹp; toàn bộ vùng
sặc mùi thịnh vượng. Ngang qua sông, cứ như là một thời khác và một nước khác.
Cả vùng bị tàn phá trên quy mô lớn. Đất không được phủ màu xanh, mà là màu nâu
và rừng bị tàn phá nặng. Thay cho các căn nhà hiện đại giàu sang với nước máy,
phòng vệ sinh, và tất cả các tiện nghi hiện đại, người dân sống trong các lều
tạm bợ và nấu nướng ở ngoài trời. Cuộc sống chắc chắn là truyền thống, rất xa
với sự tồn tại hiện đại ở bên phía đông của dòng sông. Đến bây giờ bạn sẽ không
ngạc nhiên rằng những sự khác biệt này liên kết với những sự khác biệt lớn về
các thể chế kinh tế giữa hai bên của con sông.
Bên phía đông, ở Natal, chúng ta có các quyền tài sản tư nhân, có
các hệ thống pháp luật hoạt động, có các thị trường, nền nông nghiệp thương mại
và công nghiệp. Bên phía tây, những người Transkei đã có sở hữu chung về đất và
các thủ lĩnh truyền thống có quyền vô hạn cho đến tận gần đây. Nhìn theo lăng
kính lý thuyết của Lewis về nền kinh tế kép, sự tương phản giữa Transkei và
Natal minh họa các vấn đề của sự phát triển Phi châu. Thực ra, chúng ta có thể
đi xa hơn, và lưu ý rằng, về mặt lịch sử, tất cả châu Phi đã giống Transkei,
nghèo nàn với các thể chế kinh tế tiền hiện đại, công nghệ lạc hậu, và sự cai
trị bởi các thủ lĩnh. Theo phối cảnh này, thì, sự phát triển kinh tế đơn giản
là về đảm bảo rằng Transkei cuối cùng chuyển thành Natal.
Phối cảnh này có nhiều sự thật về phần nó, nhưng nó bỏ sót toàn bộ
logic về nền kinh tế kép sinh ra như thế nào và mối quan hệ của nó với nền kinh
tế hiện đại. Sự lạc hậu của Transkei
không phải đơn giản là một tàn dư lịch sử của sự lạc hậu tự nhiên của châu Phi.
Nền kinh tế kép giữa Transkei
và Natal thực
sự là khá gần đây, và chẳng hề tự nhiên chút nào. Nó đã được tạo ra bởi các
elite Nam Phi da trắng nhằm tạo ra một kho dự trữ lao động rẻ mạt cho các doanh
nghiệp của họ và để làm giảm sự cạnh tranh từ những người Phi châu da đen. Nền
kinh tế kép là một thí dụ khác về sự chậm phát triển được tạo ra, chứ không
phải về sự chậm phát triển như nó đã nổi lên và kéo dài dai dẳng một cách tự
nhiên trong hàng thế kỷ.
Nam Phi và Botswana ,
như chúng ta sẽ thấy muộn hơn, đã tránh được hầu hết những tác động có hại của
sự buôn bán nô lệ và những cuộc chiến tranh do nó gây ra. Sự tương tác lớn đầu
tiên của Nam Phi với những người Âu châu đã xảy ra khi Công ty Đông Ấn Hà Lan
thành lập một cơ sở tại Vịnh Table, bây giờ là cảng Cape Town, năm 1652. Vào
thời này bờ tây của Nam Phi đã được định cư thưa thớt, hầu hết bởi những người
săn bắt hái lượm được gọi là những người Khoikhoi. Xa sang phía đông, ở nơi bây
giờ là Ciskei và Transkei , đã có
các xã hội Phi châu cư trú đông đúc chuyên môn hóa về nông nghiệp. Ban đầu họ
đã không tương tác mạnh với thuộc địa mới của những người Hà Lan, họ cũng đã
chẳng dính líu đến sự nô lệ hóa. Bờ biển Nam Phi đã xa các thị trường nô lệ, và
các cư dân Ciskei và Transkei, được biết đến như những người Xhosa, đã ở đủ xa
trong nội địa để không thu hút sự chú ý của bất cứ ai. Như một hệ quả, các xã
hội này đã không cảm thấy tác động chính của nhiều trào lưu có hại đã giáng
xuống Tây và Trung Phi.
Sự cô lập của các địa điểm này đã thay đổi trong thế kỷ thứ mười
chín. Đối với những người Âu châu đã có cái gì đó rất hấp dẫn về khí hậu và môi
trường bệnh tật của Nam Phi. Không giống Tây Phi, chẳng hạn, Nam Phi có khí hậu
ôn hòa mà không có các bệnh nhiệt đới như bệnh sốt rét và bệnh sốt vàng mà đã
biến nhiều phần của châu Phi thành “nghĩa địa của người da trắng” và đã cản trở
những người Âu châu định cư hay thậm chí dựng lên các đơn vị đóng thường xuyên
ở tiền đồn. Nam Phi đã là viễn cảnh tốt hơn nhiều cho sự định cư Âu châu. Sự
bành trướng Âu châu vào trong nội địa đã bắt đầu không lâu sau khi những người
Anh tiếp quản Cape Town
từ những người Hà Lan trong các cuộc Chiến tranh Napoleon. Việc này đã đẩy
nhanh một loạt cuộc chiến tranh Xhosa vì vùng biên cương định cư đã mở rộng sâu
vào nội địa. Sự thâm nhập vào nội địa Nam Phi đã tăng lên trong năm 1835, khi
những người Âu châu thuộc dòng dõi Hà Lan, những người được biết đến như các
Afrikaner hay các Boer, đã bắt đầu cuộc di cư hàng loạt nổi tiếng của họ được
biết đến như cuộc Di cư Lớn (Great Trek) khỏi những người Anh kiểm soát miền
duyên hải và vùng Cape Town. Các Afrikaner sau đó đã thành lập hai nhà nước độc
lập trong nội địa châu Phi, Nhà nước Orange Freee và Transvaal .
Giai đoạn tiếp theo của sự phát triển của Nam Phi đến với sự khám
phá ra những khu mỏ kim cương khổng lồ ở Kimberly năm 1867 và những mỏ giàu
vàng tại Johannesburg
năm 1886. Sự giàu có khoáng sản khổng lồ này trong nội địa đã ngay lập tức
thuyết phục những người Anh để mở rộng sự kiểm soát của họ ra toàn Nam Phi. Sự
kháng cự của Nhà nước Orange Free và Transvaal đã dẫn đến các cuộc Chiến tranh
Boer nổi tiếng trong các năm 1880–1881 và 1899–1902. Sau sự thất bại bất ngờ
ban đầu, những người Anh đã tìm được cách sáp nhập các nhà nước Afrikaner với
Tỉnh Cape và Natal, để tạo ra Liên Hiệp Nam Phi trong năm 1910. Vượt quá sự
đánh nhau giữa những người Afrikaner và những người Anh, sự phát triển của nền
kinh tế khai mỏ và sự mở rộng của sự định cư Âu châu đã có những hệ lụy khác đối
với sự phát triển của vùng này. Nổi bật nhất, chúng đã tạo ra cầu đối với thực
phẩm và các sản phẩm nông nghiệp khác và đã tạo ra các cơ hội kinh tế mới cho
những người Phi châu bản địa trong cả nông nghiệp và thương mại.
Những người Xhosa, ở Ciskei và Transkei, đã nhanh chóng phản ứng
lại với những cơ hội kinh tế này, như sử gia Colin Bundy đã ghi chép lại. Ngay
từ 1832, thậm chí trước sự hưng thịnh bột phát về khai mỏ, một nhà truyền giáo
Moravian ở Transkei đã quan sát thấy sự năng động kinh tế mới trong các vùng
này và đã nhắc đến cầu từ những người Phi châu đối với những hàng hóa tiêu dùng
mới mà sự mở rộng của những người Âu châu đã bắt đầu bộc lộ ra cho họ. Ông đã
viết, “Để có được các đồ vật này, họ tìm cách … để kiếm tiền bằng bàn
tay lao động của họ, và mua quần áo, các chiếc mai, cày, xe ngựa và các mặt
hàng hữu ích khác.”
Sự mô tả của ủy viên ủy ban dân sự, John Hemming, về cuộc viếng
thăm của ông đến Fingoland ở Ciskei trong năm 1876 cũng tiết lộ ngang thế. Ông
viết rằng ông đã
bị ấn tượng với sự tiến bộ rất lớn do những người Fingoe tạo ra
trong vài năm … Bất cứ đâu, mà tôi đi, tôi đã thấy các lều chắc chắn
và các nhà ở bằng gạch và bằng đá. Trong nhiều trường hợp, các nhà gạch chắc
nịch đã được dựng lên … và các cây ăn quả đã được trồng; bất cứ nơi nào
sẵn có một dòng nước nó đã được dẫn ra và đất được canh tác trong chừng mực mà
nó có thể được tưới; các sườn đồi và thậm chí các đỉnh núi đã được canh tác ở
nơi đã có thể mang cày đến. Quy mô đất được cày ải đã làm tôi ngạc nhiên; Tôi
đã không thấy một vùng lớn như vậy của đất được canh tác trong nhiều năm.
Vì trong các phần khác của châu Phi hạ-Sahara, việc sử dụng cày đã
là mới trong nông nghiệp, nhưng khi cho trước cơ hội, các nông dân Phi châu đã
có vẻ rất sẵn sàng để chấp nhận và làm theo công nghệ. Họ cũng đã sẵn sàng đầu
tư vào xe ngựa và các công trình thủy lợi.
Khi nền kinh tế nông nghiệp phát triển, các thể chế bộ lạc cứng
nhắc đã bắt đầu bị thay thế. Có rất nhiều bằng chứng rằng những thay đổi về các
quyền tài sản đối với đất đã xảy ra. Năm 1879 quan tòa tại Umzimkulu của Đông
Griqualand, ở Transkei, đã lưu ý đến “mong muốn ngày càng tăng về phía những
người bản địa để trở thành các chủ sở hữu đất – họ đã mua 38.000 mẫu.” Ba năm
sau đông đã ghi nhận rằng khoảng tám ngàn nông dân Phi châu ở trong quận đã mua
và đã bắt đầu làm việc trên chín mươi ngàn mẫu đất.
Châu Phi chắc chắn đã không gần một cuộc Cách mạng Công nghiệp,
nhưng sự thay đổi thực đã đang xảy ra. Tài sản tư nhân về đất đã làm yếu các
thủ lĩnh và đã cho phép những người mới mua đất và làm giàu, cái gì đó đã không
thể tưởng tượng nổi chỉ vài thập kỷ trước đó. Điều này cũng minh họa việc làm
suy yếu nhanh chóng đến thế nào của các thể chế khai thác và các hệ thống kiểm
soát chuyên chế có thể dẫn đến sự năng động kinh tế mới tìm thấy. Một trong
những câu chuyện thành công đã là Stephen Sonjica ở Ciskei , một nông dân tự tay gây
dựng cơ đồ từ cảnh nghèo. Trong một bài diễn văn năm 1911, Sonjica nhận thấy
thế nào khi lần đầu tiên anh bày tỏ với bố mình mong muốn của anh để mua đất,
bố anh đã đáp lại: “Mua đất ư? Làm sao con có thể muốn mua đất? Con không biết
rằng tất cả đất là của Chúa và ngài trao nó chỉ cho các thủ lĩnh?” Phản ứng của
cha Sonjica đã có thể hiểu được. Nhưng Sonjica đã không chùn bước. Anh đã có
một việc làm trong Thành phố của Vua William và đã ghi chép:
Tôi đã láu cá mở một tài khoản riêng ở ngân hàng mà tôi đã chuyển
vào đó một phần tiết kiệm của mình … Việc này đã xảy ra chỉ đến khi
tôi đã tiết kiệm được tám mươi bảng … [Tôi đã mua] một cặp bò với
những cái ách, dụng cụ, cày và những thứ còn lại của phụ tùng nông nghiệp linh
tinh … Bây giờ tôi đã mua một trang trại nhỏ … Tôi không
thể giới thiệu quá mạnh [việc trồng trọt] như một nghề đối với đồng bào
mình … Họ, tuy vậy, phải làm theo các phương pháp làm ra lợi nhuận.
Một mẩu bằng chứng lạ thường trụ đỡ cho sự năng động kinh tế và sự
thịnh vượng của các nông dân Phi châu trong thời kỳ này được tiết lộ trong một
bức thư gửi năm 1869 bởi một nhà truyền giáo Methodist, W. J. Davis. Viết cho
nước Anh, ông ghi nhận với niềm vui rằng ông đã thu được bốn mươi sáu bảng tiền
mặt “cho Quỹ Cứu tế Bông Lancashire.” Trong thời kỳ này các nông dân Phi châu
phát đạt đã quyên tiền cứu tế cho các công nhân dệt nghèo ở Anh!
Sự năng động kinh tế mới này, không ngạc nhiên, đã không làm vừa lòng
các thủ lĩnh truyền thống, những người, theo hình mẫu mà bây giờ là quen thuộc
với chúng ta, đã thấy việc này làm xói mòn sự giàu có và quyền lực của họ.
Trong năm 1879 Matthew Blyth, quan tòa chính của Transkei, đã nhận xét rằng đã
có sự chống đối việc đo đạc đất sao cho nó có thể được chia thành các tài sản
tư. Ông đã ghi lại rằng “một số thủ lĩnh … đã phản đối, nhưng hầu hết
người dân đã hài lòng … các thủ lĩnh thấy rằng việc cấp các quyền sở
hữu cá thể sẽ phá hủy ảnh hưởng của họ giữa các tộc trưởng.”
Các thủ lĩnh cũng đã chống lại những sự cải thiện được tiến hành
trên đất, như đào các mương thủy lợi hay xây dựng hàng rào. Họ đã nhận ra rằng
những sự cải thiện này chỉ là một bước dạo đầu cho các quyền tài sản cá nhân
đối với đất, sự bắt đầu của sự kết thúc đối với họ. Các nhà quan sát Âu châu
thậm chí đã lưu ý rằng các thủ lĩnh và các bậc quyền uy truyền thống, như các
thầy lang phù thủy, đã thử ngăn cấm tất cả “những cách Âu châu,” mà bao gồm các
cây trồng mới, các công cụ như cày, và các món thương mại. Nhưng sự hội nhập
của Ciskei và Transkei vào nhà nước thuộc địa Anh đã làm suy yếu quyền lực của
các thủ lĩnh và các bậc quyền uy truyền thống, và sự phản kháng của họ sẽ không
đủ để chặn sự năng động kinh tế mới ở Nam Phi. Ở Fingoland trong năm 1884, một
nhà quan sát Âu châu đã lưu ý rằng người dân đã
chuyển lòng trung thành của họ cho chúng ta. Các thủ lĩnh của họ
đã biến thành một loại chủ đất có quyền sở hữu … mà không có quyền
lực chính trị. Không còn sợ sự ghen tị của thủ lĩnh hay của vũ khí chết
người … thầy lang phù thủy, mà giáng xuống chủ sở hữu gia súc giàu
có, cố vấn có tài, sự đưa vào các tục lệ mới, người làm nông nghiệp khéo tay,
đã biến tất cả họ thành mức đồng đều của sự xoàng xĩnh – không còn sợ hãi điều
này nữa, thành viên thị tộc Fingo … là một người tiến bộ. Vẫn còn là một
nông dân chủ trang trại … anh ta sở hữu các xe bò và những chiếc cày;
anh ta mở các rãnh nước để tưới; anh ta là chủ của một đàn cừu.
Ngay cả một chút các thể chế bao gồm và sự xói mòn quyền lực của
các thủ lĩnh và những hạn chế của họ đã là đủ để khởi động một đợt bột phát
kinh tế Phi châu đầy sinh khí. Chao ôi, nó đã thật ngắn ngủi. Giữa 1890 và 1913
nó đi đến một sự kết thúc đột ngột và đảo ngược. Trong thời kỳ này hai lực đã
hoạt động để phá hủy sự thịnh vượng thôn quê và sự năng động mà những người Phi
châu đã tạo ra trong năm mươi năm trước. Thứ nhất đã là sự phản đối của các
nông dân Âu châu những người đã cạnh tranh với những người Phi châu. Những nông
dân Phi châu thành công đã kéo giá cây trồng xuống mà những người Âu châu cũng
sản xuất. Sự đáp lại của những người Âu châu đã là hất cẳng những người Phi
châu ra khỏi việc kinh doanh. Lực thứ hai thậm chí còn nham hiểm hơn. Những
người Âu châu đã muốn một lực lượng lao động rẻ mạt để sử dụng vào nền kinh tế
khai mỏ đang nảy nở, và họ đã có thể đảm bảo cung lao động rẻ này chỉ bằng cách
bần cùng hóa những người Phi châu. Họ đã làm việc này một cách có phương pháp
trong nhiều thập niên tiếp theo.
Lời khai làm chứng năm 1897 của George Albu, chủ tịch Hội Mỏ, được
trình bày cho một Ủy ban Điều tra, mô tả một cách mạnh mẽ logic của việc bần
cùng hóa những người Phi châu để có được lao động rẻ mạt. Ông ta đã giải thích
bằng cách nào ông ta đã kiến nghị làm rẻ sức lao động bằng “đơn giản nói cho lũ
trẻ rằng lương của họ bị giảm xuống.” Lời chứng của ông ta diễn ra như sau:
Ủy ban: Giả sử các kaffir [người Phi châu da đen] bỏ về kraal [chỗ
quây gia súc] của họ? Ông có ủng hộ việc yêu cầu Chính phủ để ép buộc lao động?
Albu: Chắc chắn … tôi muốn biến nó thành bắt
buộc … Vì sao một người da đen lại được phép không làm gì? Tôi nghĩ
một kaffir phải bị buộc làm việc để kiếm sống.
Ủy ban: Nếu một người có thể sống mà không làm việc, làm sao ông
có thể buộc anh ta làm việc?
Albu: Đánh thuế anh ta, rồi …
Ủy ban: Rồi ông sẽ không cho phép kaffir nắm giữ đất ở trong nước,
nhưng hắn phải làm việc cho người da trắng để làm giàu cho anh ta?
Albu: Hắn phải làm phần việc của hắn để giúp láng giềng của hắn.
Cả hai mục tiêu về loại bỏ sự cạnh tranh với các nông dân da trắng
và phát triển một lực lượng lao động lương thấp đã đồng thời được thực hiện bởi
Bộ Luật Đất Bản địa năm 1913. Bộ luật, tiên liệu trước quan niệm của Lewis về
nền kinh tế kép, đã chia Nam Phi thành hai phần, một phần hiện đại thịnh vượng
và một phần truyền thống nghèo. Trừ việc sự thịnh vượng và nghèo khó thực ra sẽ
được tạo ra bởi bản thân bộ luật. Nó tuyên bố rằng 87 phần trăm đất được giao
cho những người Âu châu, những người đại diện cho khoảng 20 phần trăm dân số.
Phần 13 phần trăm còn lại được giao cho những người Phi châu. Tất nhiên, Bộ
luật Đất đai đã có nhiều tiền đề từ trước bởi vì dần dần những người Âu châu đã
hạn chế những người Phi châu trong các miếng đất nhỏ hơn và nhỏ hơn. Nhưng
chính Bộ luật 1913 đã là cái thể chế hóa một cách dứt khoát tình trạng và đã dựng
vũ đài cho sự hình thành của chế độ Apartheid Nam Phi, với thiểu số da trắng có
cả các quyền chính trị và kinh tế và đa số da đen bị loại trừ khỏi cả hai. Bộ
luật đã quy định rằng nhiều vùng đất, bao gồm Transkei
và Ciskei ,
trở thành “các Xứ sở Phi châu.” Muộn hơn những vùng này trở thành cái được biết
đến như các Bantustan, một phần khác của nghệ thuật hùng biện của chế độ
Apartheid ở Nam Phi, vì nó cho rằng những người Phi châu của miền Nam châu Phi
đã không là những người dân bản xứ của vùng này mà là hậu duệ của những người
Bantu đã di cư từ Đông Nigeria sang khoảng một ngàn năm trước. Họ như thế đã
không có nhiều hơn – và tất nhiên, trên thực tế, có ít hơn – quyền đối với đất
so với những người định cư Âu châu.
Bản đồ 16 (trang sau) cho thấy số lượng đất đáng làm trò cười đã
được giao cho những người Phi châu theo Đạo luật Đất đai 1913 và đạo luật kế vị
nó năm 1936. Nó cũng ghi lại thông tin từ 1970 về mức độ của sự phân bổ đất
tương tự mà đã xảy ra trong việc xây dựng một nền kinh tế kép khác nữa ở Zimbabwe,
mà chúng ta sẽ thảo luận ở chương 13.
Pháp luật 1913 cũng đã bao gồm các điều khoản dự trù để chặn những
người lĩnh canh và những người chiếm đất da đen khỏi việc canh tác trên đất do
người da trắng sở hữu trong bất cứ tư cách nào khác với tư cách tá điền làm
thuê. Như bộ trưởng về các vấn đề địa phương đã giải thích, “Tác động của bộ
luật đã là ngừng, trong tương lai, mọi giao dịch dính líu đến bất cứ thứ gì
theo bản chất của một sự chung phần giữa những người Âu châu và những người bản
địa liên quan đến đất hay thành quả của đất. Tất các các hợp đồng mới với những
người bản địa phải là các hợp đồng dịch vụ. Miễn là có một hợp đồng thành thật
thuộc bản chất này thì không có gì ngăn cản một người chủ trả một người bản địa
bằng hiện vật, hay bằng đặc ân canh tác một miếng đất được xác định
… Nhưng người bản địa không thể trả ông chủ bất cứ thứ gì cho quyền của
anh ta để chiếm đất.”
Đối với các nhà kinh tế học phát triển, những người đã thăm Nam
Phi trong các năm 1950 và 1960, khi môn học lý thuyết hình thành và các ý tưởng
của Arthur Lewis đang truyền bá, sự tương phản giữa các Xứ sở và nền kinh tế Âu
châu da trắng hiện đại thịnh vượng đã dường như là chính xác cái mà lý thuyết
nền kinh tế kép nói về. Phần Âu châu của nền kinh tế đã là đô thị và được giáo
dục, và đã sử dụng công nghệ hiện đại. Các Xứ sở đã nghèo, nông thôn, và lạc
hậu; lao động ở đó đã rất không sinh lợi; người dân không được giáo dục. Nó đã
có vẻ là bản chất của châu Phi lạc hậu muôn thủa.
Trừ chuyện nền kinh tế kép đã không phải là tự nhiên hay không thể
tránh khỏi. Nó đã được tạo ra bởi chủ nghĩa thuộc địa Âu châu. Đúng vậy, các Xứ
sở đã nghèo và lạc hậu về mặt công nghệ, và người dân đã không được giáo dục.
Nhưng tất cả điều này là một kết quả của chính sách của chính phủ, mà đã hủy
diệt bằng vũ lực lao động Phi châu để sử dụng trong các mỏ và đất do người Âu
châu kiểm soát. Sau 1913 rất đông người Phi châu đã bị đuổi khỏi đất của họ, mà
đã được tiếp quản bởi những người da trắng, và bị dồn chật ních vào các Xứ sở,
mà đã là quá nhỏ đối với họ để kiếm sống một cách độc lập từ đó. Như được dự
tính, vì thế, họ sẽ buộc phải kiếm sinh kế trong nền kinh tế da trắng, cung ứng
lao động của họ một cách rẻ mạt. Khi các khuyến khích kinh tế của họ đã sụp đổ,
sự tiến bộ mà xảy ra trong năm mươi năm trước tất cả đã bị đảo ngược. Người dân
bỏ cày của mình và đã trở lại canh tác với cuốc – tức là, nếu họ có canh tác
chút nào. Thường xuyên hơn họ chỉ sẵn có như lao động rẻ mạt, mà các Xứ sở đã
được cấu trúc để đảm bảo.
Đã không chỉ là các khuyến khích kinh tế bị há hủy. Những sự thay
đổi chính trị mà bắt đầu xảy ra cũng đã đi theo chiều ngược lại. Quyền lực của
các thủ lĩnh và những kẻ cai trị truyền thống, mà trước đây trong suy tàn, thì
được củng cố, bởi vì phần của dự án để tạo ra một lực lượng lao động rẻ mạt đã
là xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về đất. Cho nên sự kiểm soát của các thủ lĩnh
đối với đất đã được tái khẳng định. Các biện pháp này đã đạt đỉnh điểm của
chúng trong năm 1951, khi chính phủ thông qua Đạo luật Nhà chức trách Bantu.
Ngay từ năm 1940, G. Findlay đã chỉ ra đúng vấn đề:
Đất phát canh bộ lạc là một đảm bảo rằng đất sẽ chẳng bao giờ được
khai thác một cách thích hợp và sẽ chẳng bao giờ thực sự thuộc về những người
bản xứ. Lao động rẻ mạt phải có chỗ gây giống rẻ mạt, và như thế nó được cung
cấp cho những người Phi châu với phí tổn của riêng của họ.
Sự tước quyền sở hữu của các nông dân Phi châu đã dẫn đến sự bần
cùng hóa hàng loạt của họ. Nó đã tạo ra không chỉ các nền tảng thể chế của một
nền kinh tế lạc hậu, mà đã tạo ra những người nghèo để cung ứng cho nó.
Bằng chứng sẵn có chứng minh sự đảo ngược về mức sống trong các Xứ
Sở sau Luật Đất đai Bản xứ năm 1913. Transkei
và Ciskei
đã lâm vào sự sa sút kinh tế kéo dài. Các hồ sơ việc làm từ các công ty khai mỏ
vàng được thu thập bởi sử gia Francis Wilson cho thấy rằng sự sa sút này đã phổ
biến trong toàn bộ nền kinh tế Nam Phi. Tiếp sau Bộ luật Đất đai Bản xứ và các
quy định luật khác, lương của các thợ mỏ đã rớt 30 phần trăm giữa 1911 và 1921.
Trong năm 1961, bất chấp sự tăng trưởng đều đặn tương đối trong nền kinh tế Nam
Phi, các mức lương này đã vẫn thấp hơn 12 phần trăm so với lương trong năm
1911. Không có gì ngạc nhiên rằng trong giai đoạn này Nam Phi đã trở thành nước
bất bình đẳng nhất trên thế giới.
Nhưng ngay cả trong những hoàn cảnh này, chẳng phải những người
Phi châu da đen đã có thể làm ăn thịnh vượng trong nền kinh tế Âu châu hiện
đại, đã khởi động một doanh nghiệp, hay đã trở nên có giáo dục và bắt đầu một
sự nghiệp? Chính phủ đã đảm bảo chắc chắn rằng những việc này không thể xảy ra.
Không người Phi châu nào được phép sở hữu tài sản hay bắt đầu một doanh nghiệp
trong phần Âu châu của nền kinh tế – chiếm 87 phần trăm đất đai. Chế độ
Apartheid cũng đã nhận ra rằng những người Phi châu có giáo dục đã cạnh tranh
với những người da trắng hơn là cung cấp lao động rẻ mạt cho các mỏ và nền nông
nghiệp do người da trắng sở hữu. Ngay từ năm 1904 một hệ thống đặt chỗ làm việc
cho những người Âu châu đã được đưa ra trong nền kinh tế khai mỏ. Không người
Phi châu nào được phép làm một người đứng máy hỗn hống, một người xét nghiệm,
một người cai mỏ lộ thiên, một thợ rèn, một người làm nồi hơi, một người sửa
ống lót sau cùng, một người làm khuôn ống lót, một người thợ nề … và
danh sách tiếp tục và tiếp tục, cho đến tận thợ máy gia công gỗ. Bằng một cú
duy nhất, những người Phi châu bị cấm làm bất cứ công việc có kỹ năng nào trong
khu vực khai mỏ. Đấy đã là sự hiện thân đầu tiên của “vạch màu” nổi tiếng, một
trong nhiều sáng chế phân biệt chủng tộc của chế độ Nam Phi. Vạch màu đã được
mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế trong năm 1926, và đã kéo dài cho đến các năm
1980. Không ngạc nhiên là những người Phi châu da đen đã không được giáo dục;
nhà nước Nam Phi không chỉ đã loại bỏ khả năng của những người Phi châu để
hưởng lợi về mặt kinh tế từ sự giáo dục mà cũng đã từ chối đầu tư vào các
trường học da đen và làm nản lòng sự giáo dục người da đen. Chính sách này đã
đạt đỉnh điểm của nó trong các năm 1950, khi, dưới sự lãnh đạo của Hendrik
Verwoerd, một trong những kiến trúc sư của chế độ Apartheid mà đã kéo dài đến
1994, chính phủ đã thông qua Đạo luật Giáo dục Bantu. Triết lý của đạo luật này
đã được giải thích rõ ràng một cách toạc móng heo bởi bản thân Verwoerd trong
một bài phát biểu năm 1954:
Người Bantu phải được hướng dẫn để phục vụ cộng đồng riêng của anh
ta trong mọi khía cạnh. Không có chỗ nào cho anh ta trong cộng đồng người Âu
châu trên mức các hình thức nhất định của lao động … Vì lý do đó
không có ích gì đối với anh ta để nhận được một sự đào tạo mà như mục tiêu của
nó có sự hấp thu vào cộng đồng người Âu châu trong khi anh ta không thể và sẽ
không được hấp thu vào đó.
Một cách tự nhiên, loại nền kinh tế kép được phát biểu rõ ràng trong bài
nói chuyện của Verwoerd là khá khác với lý thuyết nền kinh tế kép của Lewis. Ở
Nam Phi nền kinh tế kép đã không phải là một kết quả không thể tránh khỏi của
quá trình phát triển. Nó được tạo ra bởi nhà nước. Ở Nam Phi đã không có sự dịch chuyển trơn tru nào của những người nghèo từ khu vực
lạc hậu sang khu vực hiện đại khi nền kinh tế tiến triển. Ngược lại, sự thành
công của khu vực hiện đại đã dựa vào sự tồn tại của khu vực lạc hậu, mà đã cho
phép các ông chủ da trắng kiếm được lợi nhuận khổng lồ bằng trả những đồng
lương rất thấp cho các công nhân da đen không có kỹ năng. Ở Nam Phi đã không có
một quá trình của những công nhân không có kỹ năng từ khu vực truyền thống dần
dần trở nên được đào tạo và có kỹ năng, như cách tiếp cận của Lewis đã dự tính.
Thực ra, các công nhân da đen đã được giữ không có kỹ năng một cách có chủ ý và
đã bị cản trở khỏi các nghề nghiệp có kỹ năng cao, sao cho các công nhân da
trắng có kỹ năng không phải đối mặt với sự cạnh tranh và có thể hưởng lương
cao. Ở Nam Phi những người Phi châu da đen quả thực đã bị “sập bẫy” trong nền
kinh tế truyền thống, ở các Xứ sở. Nhưng đấy đã không là vấn đề phát triển mà
sự tăng trưởng có thể tạo ra cái thiện. Các Xứ sở đã là cái cho phép sự phát
triển của nền kinh tế da trắng.
Cũng không có sự ngạc nhiên nào rằng loại phát triển kinh tế mà
Nam Phi da trắng đạt được cuối cùng đã bị hạn chế, do dựa vào các thể chế khai
thác mà những người da trắng đã xây dựng lên để bóc lột những người da đen.
Những người da trắng Nam Phi đã có các quyền tài sản, họ đã đầu tư vào giáo
dục, và họ đã có thể khai thác vàng và kim cương và bán chúng rất có lời trên
thị trường thế giới. Nhưng hơn 80 phần trăm của dân số Nam Phi đã bị đẩy ra bên
lề và bị loại trừ khỏi tuyệt đại đa số các hoạt động kinh tế đáng mong mỏi.
Những người da đen đã không thể sử dụng tài năng của họ; họ đã không thể trở
thành các công nhân có kỹ năng, các nhà kinh doanh, các doanh nhân khởi nghiệp,
các kỹ sư, hay các nhà khoa học. Các thể chế kinh tế đã là khai thác; những
người da trắng trở nên giàu bằng bòn rút từ những người da đen. Quả thực, những
người Nam Phi da trắng đã chia sẻ mức sống của những người ở các nước Tây Âu,
trong khi những người Nam Phi da đen hầu như đã không giàu hơn những người ở
phần còn lại của châu Phi hạ-Sahara. Sự tăng trưởng kinh tế này không có sự phá
hủy sáng tạo, mà từ đó chỉ có những người da trắng được hưởng lợi, đã tiếp tục
chừng nào các khoản thu từ vàng và kim cương đã còn tăng. Vào các năm 1970, tuy
vậy, nền kinh tế đã ngừng tăng.
Và lại sẽ không có ngạc nhiên gì rằng tập hợp này của các thể chế
kinh tế khai thác đã được xây dựng trên nền tảng được sắp đặt bởi một tập của
các thể chế chính trị hết sức khai thác. Trước khi bị lật đổ trong năm 1994, hệ
thống chính trị Nam Phi đã trao mọi quyền lực cho những người da trắng, những
người đã là những người duy nhất được phép bỏ phiếu bầu và ứng cử vào chức vụ.
Những người da trắng đã áp đảo lực lượng cảnh sát, quân đội, và tất cả các tổ
chức chính trị. Các thể chế này đã được cấu trúc dưới sự thống trị quân sự bởi
những người định cư da trắng. Vào thời gian thành lập Liên hiệp Nam Phi năm
1910, các chính thể Afrikaner của Nhà nước Orange Free và Transvaal đã có các
đặc quyền chủng tộc tường minh, ngăn cản những người da đen hoàn toàn khỏi sự
tham gia chính trị. Natal và Khu Cape đã cho phép những người da đen bỏ phiếu
nếu họ đã có đủ tài sản, mà một cách điển hình họ đã không có. Hiện trạng của
Natal và Khu Cape đã được giữ trong năm 1910, nhưng vào các năm 1930, những
người da đen đã bị tước quyền bầu cử một cách tường minh ở mọi nơi tại Nam Phi.
Nền kinh tế kép của Nam Phi đã có đi đến một kết thúc trong năm
1994. Nhưng không phải bởi vì các lý do mà Sir Arthur Lewis đã bàn lý luận về.
Đã không phải là sự diễn tiến tự nhiên của sự phát triển kinh tế đã chấm dứt
vạch màu và các Xứ sở. Những người Nam Phi da đen đã phản đối và đã đứng lên
chống lại chế độ mà đã không công nhận các quyền cơ bản của họ và đã không chia
sẻ các lợi ích của sự tăng trưởng kinh tế với họ. Sau cuộc khởi nghĩa Soweto năm 1976, những
cuộc phản kháng đã trở nên có tổ chức hơn và mạnh hơn, cuối cùng đã lật đổ nhà
nước Apartheid. Chính sự trao quyền của những người da đen, những người đã tìm
được cách để tổ chức và đứng lên, là cái cuối cùng đã chấm dứt nền kinh tế kép
của Nam Phi theo cùng cách mà lực lượng chính trị của những người da trắng Nam
Phi đã tạo ra nó trước hết.
SỰ PHÁT TRIỂN BỊ ĐẢO NGƯỢC
Sự bất bình đẳng thế giới ngày nay tồn tại bởi vì trong các thế kỷ
thứ mười chín và hai mươi một số quốc gia đã có khả năng tận dụng lợi thế của
Cách mạng Công nghiệp và các công nghệ và các phương pháp tổ chức mà nó mang
lại, trong khi các quốc gia khác đã không có khả năng làm vậy. Sự thay đổi công
nghệ chỉ là một động cơ của sự thịnh vượng, nhưng nó có lẽ là động cơ quyết
định nhất. Các nước mà đã không tận dụng được lợi thế của các công nghệ mới
cũng đã chẳng hưởng lợi được từ các động cơ khác của sự thịnh vượng. Như chúng
ta đã cho thấy trong chương này và chương trước, sự thất bại này đã là do các
thể chế khai thác, hoặc như một hệ quả của sự tồn tại dai dẳng của các chế độ
chuyên chế của họ hay bởi vì chúng thiếu các nhà nước tập trung. Nhưng chương này
cũng cho thấy rằng trong nhiều trường hợp các thể chế khai thác, mà đã là nòng
cốt của sự nghèo khó của các quốc gia này, đã được áp đặt, hay nói nhẹ đi đã
được củng cố, bởi chính cùng quá trình mà đã tiếp nhiên liệu cho sự tăng trưởng
Âu châu: sự bành trướng thương mại và thuộc địa Âu châu. Trên thực tế, tính
sinh lời của các đế chế thuộc địa Âu châu đã thường dựa vào sự phá hủy các
chính thể độc lập và các nền kinh tế bản địa quanh thế giới, hay dựa vào sự tạo
ra các thể chế khai thác một cách thực chất từ cơ sở lên, như ở các đảo Caribe,
nơi, tiếp theo sự sụp đổ hầu như hoàn toàn của các dân cư bản địa, những người
Âu châu đã nhập khẩu các nô lệ Phi châu và dựng lên các hệ thống đồn điền.
Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết các quỹ đạo nào của các thành-quốc độc
lập như các thành quốc ở các Đảo Banda, ở Aceh, hay ở Burma (Myanmar) đã có thể
là giả như không có sự can thiệp Âu châu. Họ có thể đã có Cách mạng Vinh quang
bản địa riêng của họ, hay đã chuyển một cách chậm đến các thể chế chính trị và
kinh tế bao gồm hơn dựa trên thương mại gia tăng về các gia vị và các hàng hóa
có giá trị khác. Nhưng khả năng này đã bị loại bỏ bởi sự mở rộng của Công ty
Đông Ấn Hà Lan. Công ty đã tiệt trừ bất cứ hy vọng nào của sự phát triển bản
địa ở các Đảo Banda bằng việc thực hiện sự diệt chủng của nó. Mối đe dọa của nó
cũng đã làm cho các thành-quốc ở nhiều phần khác của Đông Nam Á rút lui khỏi
thương mại.
Câu chuyện của một trong những nền văn minh cổ xưa nhất ở châu Á,
Ấn Độ, là tương tự, mặc dù sự đảo ngược phát triển đã không do người Hà Lan mà
do người Anh gây ra. Ấn Độ đã là nhà sản xuất và xuất khẩu hàng dệt lớn nhất
thế giới trong thế kỷ thứ mười tám. Vải in hoa và vải muslin Ấn Độ đã tràn ngập
các thị trường Âu châu và đã được buôn bán khắp châu Á và thậm chí miền đông châu
Phi. Đại lý chính mà đã mang chúng đến các Đảo Anh đã là Công ty Đông Ấn Anh.
Được thành lập năm 1600, hai năm trước phiên bản Hà Lan, Công ty Đông Ấn Anh đã
sử dụng thế kỷ thứ mười bảy để thử thiết lập một độc quyền về các hàng xuất
khẩu có giá trị từ Ấn Độ. Nó đã phải cạnh tranh với những người Bồ Đào Nha,
những người đã có cơ sở ở Goa, Chittagong, và Bombay, và những người Pháp với
các cơ sở ở Pondicherry, Chvàernagore, Yanam, và Karaikal. Cách mạng Vinh quang
đã còn tồi tệ hơn cho Công ty Đông Ấn, như chúng ta đã thấy trong chương 7. Sự
độc quyền của Công ty Đông Ấn đã được các vua Stuart ban cho và đã bị thách
thức ngay lập tức sau 1688, và thậm chí bị bãi bỏ trong hơn một thập kỷ. Sự mất
quyền lực đã là đáng kể, như chúng ta đã thấy ở trước (trang 199-200), bởi vì
các nhà sản xuất hàng dệt ở Anh đã có khả năng xui khiến Quốc hội cấm nhập khẩu
vải in hoa, món hàng sinh lợi nhất của Công ty Đông Ấn. Trong thế kỷ thứ mười
tám, dưới sự lãnh đạo của Robert Clive, Công ty Đông Ấn đã thay đổi chiến lược và
đã bắt đầu phát triển một đế chế thuộc địa. Vào lúc đó, Ấn Độ đã bị tách thành
nhiều chính thể cạnh tranh, mặc dù trên danh nghĩa nhiều chính thể đã vẫn dưới
sự kiểm soát của hoàng đế Mughal ở Delhi .
Công ty Đông Ấn đầu tiên đã mở rộng ở Bengal bên miền đông, đánh bại các cường
quốc địa phương tại các trận Plassey năm 1757 và Buxar năm 1764. Công ty Đông
Ấn đã cướp bóc của cải địa phương và đã tiếp quản, và có lẽ thậm chí đã tăng
cường, các thể chế đánh thuế khai thác của các nhà cai trị Mughal của Ấn Độ. Sự
mở rộng này đã trùng với sự co lại ồ ạt của ngành dệt Ấn Độ, vì, rốt cuộc, đã
không còn thị trường cho các mặt hàng này ở Anh. Sự co lại đã đi cùng với
thoái-đô thị hóa và sự nghèo khó gia tăng. Nó đã khởi xướng một giai đoạn dài
của sự phát triển bị đảo ngược ở Ấn Độ. Chẳng bao lâu sau, thay cho sản xuất
hàng dệt, những người Ấn Độ đã mua chúng từ Anh và trồng thuốc phiện cho Công
ty Đông Ấn để bán ở Trung Quốc.
Sự buôn bán nô lệ qua Đại Tây Dương đã lặp lại cùng hình mẫu ở
châu Phi, cho dù bắt đầu từ những điều kiện ít phát triển hơn ở Đông Nam Á và
Ấn Độ. Nhiều nhà nước Phi châu đã biến thành các bộ máy chiến tranh có mục đích
bắt và bán các nô lệ cho những người Âu châu. Khi xung đột giữa các chính thể
và các nhà nước khác nhau đã biến thành chiến tranh liên tục, các thể chế nhà
nước, mà trong nhiều trường hợp đã chưa đạt nhiều sự tập trung hóa chính trị
trong bất cứ tình huống nào, đã đổ nát trong các phần lớn của châu Phi, mở
đường cho các thể chế khai thác dai dẳng và các nhà nước thất bại ngày nay mà
chúng ta sẽ nghiên cứu muộn hơn. Trong vài phần của châu Phi mà đã tránh được
sự buôn bán nô lệ, như Nam Phi, những người Âu châu đã áp đặt một tập hợp khác
của các thể chế, lần này được thiết kế để tạo ra một nguồn lao động rẻ mạt cho
các mỏ và các trang trại của họ. Nhà nước Nam Phi đã tạo ra một nền kinh tế
kép, ngăn 80 phần trăm dân cư khỏi việc tham gia vào các nghề có kỹ năng, canh
tác thương mại, và tinh thần kinh doanh. Tất cả điều này không chỉ giải thích
vì sao công nghiệp hóa đã bỏ qua các phần lớn của thế giới mà cũng bao gọn như
thế nào sự phát triển kinh tế đôi khi có thể dựa vào, và thậm chí tạo ra, sự
chậm phát triển ở phần khác nào đó của nền kinh tế nội địa hay thế giới.
10.SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét