thư mục

Thứ Tư, 12 tháng 4, 2017

Sử thuyết vua hùng


Vua Hùng tên thật là gì?
1. Hùng và Lạc
Chữ Hùng (trong Hùng vương, Hùng điền) hay chữ Lạc (trong Lạc vương, Lạc điền, Lạc hầu, Lạc tướng) chữ nào có trước?
Chữ Lạc có trước, xuất hiện trong văn bản Giao Châu ngoại vực kí [交州外域記, Jiaozhou waiyu ji]. Cụ thể như sau:
交州外域記曰,交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民。設雒王雒侯主諸郡縣。縣多為雒將。雒將銅印青綬。
“Giao châu ngoại vực kí viết: “Giao Chỉ tích vị hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền, kì điền tòng triều thủy thượng hạ/thướng há, dân khẩn thực kì điền, nhân danh vi lạc dân. Thiết lạc vương lạc hầu chủ chư quận huyện. Huyện đa vi lạc tướng. Lạc tướng đồng ấn thanh viện.”
Giao châu ngoại vực kí nói rằng: ‘Jiaozhi/ Giao Chỉ thời xưa khi chưa có quận huyện, đất đai (thì) có ruộnglạc. Những ruộng này theo (sự) lên xuống của con nước, và người dân cày cấy lấy cái ăn [ở] ruộng đó vì thế được gọi là dân lạc. Đặt các ông hoàng lạc (lạc vương), các ông quanlạc (lạc hầu) cai quản ở các quận huyện. Nhiều huyện có tướng lạc (lạc tướng). Các tướng lạc có dấu đồng và dải xanh.’
Chữ Hùng có sau, xuất hiện trong Nam Việt Chí. Cụ thể như sau:
交趾之地頗爲膏腴,徙民居之,始知播植,厥土惟黑壤,厥氣惟雄,故今稱其田為雄田,其民為雄民,有君長亦曰雄王,有輔佐焉亦曰雄侯,分其地以為雄將。(出南越志)
Giao Chỉ chi địa phả vi cao du, tỉ dân cư chi, thủy tri bá thực, quyết thổ duy hắc nhưỡng, quyết khí duy hùng, cố kim xưng kì điền vi hùng điền, kì dân vi hùng dân, hữu quân trưởng diệc viết hùng vương, hữu phụ tá yên diệc viết hùng hầu, phân kì địa dĩ vi hùng tướng.
Vùng đất Jiaozhi/ Giao Chỉ tương đối màu mỡ. Di dân đến sống ở đó, mới bắt đầu biết gieo trồng. Đất ở đây rặt là đất phì nhiêu đen. Khí ở đây mạnh (hùng). Cho nên bây giờ gọi những ruộng ở đây là ruộng hùng, dân ở đây là dân hùng. Có người lãnh đạo tối cao (quân trưởng) cũng gọi là vua hùng (hùng vương). Có những người phụ tá ông ấy [tức ông vuahùng] thì cũng gọi là quan hùng (hùng hầu). Chia đất ở đây để cho các tướng hùng (hùng tướng).
Chi tiết, xin xem bài dịch cực hay “Có các vua “Lạc” hoặc có các vua “Hùng” hay không? Hay là chẳng có cả hai?”.
2.Hùng hay Lạc
Nam Việt Chí ra đời sau Giao Châu ngoại vực ký hàng trăm năm. Quan trọng hơn, chữ Lạc (雒) chữ chỉ là để phiên âm từ tiếng Việt cổ qua chữ Hán cổ. Còn chữ Hùng (雄) là một chữ có nghĩa.
3. Chữ Lạc từ đâu mà có.
Người Việt cổ không có họ. Tên đặt theo nghề. Đến đời Trần vẫn đặt tên theo nghề cá. Lần ngược lên thời Hai Bà, tên người được đặt theo nghề nuôi tằm (Trứng Chắc, Trứng Nhì, rồi được người Tàu văn bản hóa bằng hán tự, rồi được các nhà sử học ngày xưa của VN dịch về tiếng ta thành Trưng Trắc, Trưng Nhị. Có rất nhiều ví dụ về tên nôm của danh nhân được người Tàu hán tự hóa rồi dịch ngược ra tiếng ta. Ai đọc Tạ Chí Đại Trường sẽ nhớ trường hợp rất thú vị của Lý Thường Kiệt – Thằng Kặc. Ngay cả trong lịch sử cận đại, nhiều tên riêng do phiên âm qua chữ latin rồi sau này dịch ngược lại qua tiếng Việt cũng có những biến thể thú vị như Chí Hòa – Kỳ Hòa, Vũng Quýt – Dung Quất).
Quay trở lại với văn bản Giao Châu Ngoại Vực Ký đã nói ở trên, thời cổ người dân sống bằng nghề nông, trồng cây lạc, trên các thửa ruộng lạc, tưới tiêu bằng thủy lợi tự nhiên, dân sống trên ruộng lạc, gọi là dân lạc, thủ lĩnh của dân lạc gọi là lạc vương, dưới lạc vương là các lạc hầu, lạc tướng.
Chữ Lạc chính là chữ lúa. Ruộng lạc là ruộng lúa. Dân lạc là dân (trồng) lúa. Tiếng Việt cổ gọi lúa là Lọ. Phiên âm qua tiếng Hán rồi phiên âm ngược lại tiếng Việt mà trở thành Lạc.
Người Mường (cùng ngôn ngữ với người Việt cổ) gọi Lúa là Lọ hoặc Ló. Tục ngữ người Mường có câu “Cơm mường Vó, Lọ mường Vang” (cám ơn chú Huy Tâm đã dạy cháu từ này).
Qua bao năm lạc lối, tên riêng Lúa của cha ông chúng ta, chạy qua bên Tàu, quay về với các nhà viết sử Việt thời cổ, lạc tiếp vài lần nữa, thành chữ Lạc. Nay nhờ 5xu biết google nghiên cứu mà tìm ra nghĩa gốc của từ. Chúc mừng Vua Lúa (nước) tục gọi Hùng Vương. Chúng con xin trả tên đúng về cho cụ
Ngày Giỗ Tổ ở đâu ra?
Trong entry trước tôi có thắc mắc liệu là cái ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3 ở đâu ra. Cái thắc mắc nho nhỏ của tôi là vì ngày 10 tháng 3 là ngày vua Khải Định dùng công văn để quy định. Năm vua Khải Định ra cái công văn này là năm 1917. Đồng thời ca dao có câu “nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3”.
Trong cái entry này bác 3 có nói rằng cái câu ca dao kia thực ra là rất mới, có tác giả đàng hoàng, và đăng báo vào năm 193x. Tức là cái câu ca dao ấy thực ra là để tuyên truyền cho cái ngày Giỗ Tổ mà vua Khải Định ấn định cho cả nước. Còn ngày Giỗ Tổ thực, mà nhân dân địa phương khu vực Đền Hùng, vẫn tiến hành cả ngàn (?) năm nay là ngày 11 tháng 3 âm lịch. (Vua cho cả nước làm sớm lên 1 ngày, ngay tại đền Hùng, để sau đấy một ngày thì dân địa phương có thời gian và địa điểm làm lễ của riêng mình). Qua đây cũng thấy cái giải thích của Kim Định về ngày 10 tháng 3 (Tam Miêu – Bách Việt) là bị đổ gãy hoàn toàn.
Thế nhưng, cuối cùng, thì cái ngày 11 tháng 3 âm lịch ấy phải ở đâu ra chứ? Nó phải có ý nghĩa (cho dù là gán ghép) hoặc tốt hơn cả, là nó phải có nguồn gốc thực sự từ đâu đó cội nguồn dân tộc. Thực ra tôi có câu trả lời riêng của mình, nhưng từ từ đã, lát sẽ nói. Thế mới gọi là câu view.
***
Đền Hùng, thực ra không cũ lắm, mới chỉ được xây dựng từ đời nhà Đinh. Điều này dễ hiểu vì trước đó là cả ngàn năm Bắc Thuộc.
Mã Viện sau khi cướp nước ta đã đốt sách, nung chảy hầu hết trống đồng, tịch thu mang về Tàu hầu hết các tác phẩm và sản phẩm tinh hoa của chúng ta, để rồi sau cả ngàn năm bắc thuộc, chúng ta mù mờ về tổ tiên nhà mình. Nghiên cứu sử theo sách sử (chép) thì dựa nhiều vào sách Tàu (ví dụ như Hậu Hán Thư) và sách ta, bắt đầu từ An Nam Quốc Vương kiêm hoàng tộc nhà Trần đầu hàng theo giặc (hehehe). Ngoài ra chỉ còn huyền sử với Lĩnh Nam Chích Quái là những câu chuyện nổi tiếng nhất.
***

Nếu chịu khó đọc tài liệu, hoặc đơn giản hơn là google, mọi người sẽ thấy cả chục thuyết khác nhau về cội nguồn dân tộc. Từ mê tín dị đoan Nho Việt, Hà Đồ, Kinh Thi, Kinh Dịch (Kim Định và những người theo phái này), đến văn hóa Đông Sơn, Hòa Bình (các nhà lịch sử khảo cổ Hà Văn Tấn đến Trần Quốc Vượng). Từ nhân chủng học (Bình Nguyên Lộc, cho rằng tổ tiên chúng ta có chủng Malai) đến Lê Mạnh Thát nghiên cứu sử dựa vào văn bản phật giáo và qua đó khước từ cả Triệu Đà lẫn An Dương Vương là vua của người Việt. Sau đây là tóm tắt một chút về các thuyết để các bạn thích món nào thì tự xào internet món đấy.
1. Trường phái Huyền Sử và sau này các môn đệ thêm cả mê tín vào (hay gọi luôn là phái Kim Định cho dễ) thì cho rằng Viêm Việt (Bách Việt, Cửu Lê, Lạc Việt…) ngày xưa làm chủ đất và văn minh Hoa Hạ. Sau này bị Hán Tộc vốn là dân du mục, thiện chiến hơn, oánh cho tơi bời, chạy toé khói về phương nam. Rồi lại bị đô hộ, chỉ có một nhóm nhỏ tồn tại đến bây giờ chính là người Việt chúng ta đang lướt web hiện nay. Rồi từ đó nhận hết Nho học, Kinh Thi, Kinh Dịch này nọ là có nguồn gốc từ dân ta mà ra hết. Tuy thường xuyên đẽo chân cho vừa giày, ông Kim Định có một điểm rất thuyết phục đó là họ của người xưa, bọn du mục thì lấy tên của tướng, họ của dân nông nghiệp lấy theo đất. Ông Tạ Chí Đại Trường cũng có nói Hùng là từ Hùng Điền mà ra.
2. Ngoại trừ những người làm sử dựa nhiều vào khoa học, ví dụ dựa vào khảo cổ học như cụ Hà Văn Tấn, thì có hai người mà tôi rất khoái do họ sử dụng nhiều phương pháp suy luận kiểu điều tra phá án Sherlock Holmes, kết hợp khảo cổ và folklor học, lẫn nghiệp vụ hịên trường CSI: đó là Trần Quốc Vượng, Tạ Chí Đại Trường. Ví dụ tiêu biểu là cả hai ông này đều có những phát kiến về ảnh hưởng của tù binh Chăm ở đồng bằng Bắc Bộ. Hay ông Tạ chí Đại Trường nói “có tội thì lội xuống sông” là dấu vết văn hóa của tắm sông Hằng (do cách nào đó đã đến VN, ví dụ qua phật giáo Nam tông) còn sót lại. Ông này còn giải thích về các họ Lí-Lê (Việt Mường), Phan-Phạm (Chàm) và Trịnh (Thái).
3. Ông Bình Nguyên Lộc tuy nói dài và hay khiêu khích nhưng ông ấy sử dụng hai công cụ cực kỳ đáng tin cậy là Nhân chủng học và Ngôn ngữ. Tuy món nhân chủng học là món gây nhiều tranh cãi, nhưng ngôn ngữ học lại có sự đồng thuận cao. Ông Bình Nguyên Lộc chứng minh được (tuy còn nhiều dẫn chứng võ đoán) rằng tiếng Việt trước thời kỳ Mã Viện là tiếng đa âm. Tàn tích còn sót lại là các từ ghép như Biển Cả. Ông này có giải thích từ Văn Lang là từ chữ Nang Vlang (Cọ Sọc) mà ra (ngoài cái ông này thì chưa thấy ai giải thích Văn Lang từ đâu mà ra cả). Ông này cho rằng người Việt Cổ là hậu duệ của giống Proto-Australoid (Cổ-Phương Nam), chủng thì là chủng Mã Lai. Vua Hùng là một bộ tộc thuộc chủng này, chiến thắng hằng loạt bộ tộc khác (cũng cùng chủng ấy, có ngôn ngữ và văn hóa giống nhau) thành lập nước Văn Lang, du nhập công nghệ đúc trống đồng của người Mã Lai (cũng là cùng chủng). Người Mường là các chủng tiến hóa hơn (đời sau) của giống này và đến Việt Nam sau cùng cho nên văn hóa và ngôn ngữ của người Mường rất giống người Việt Cổ và có nét gần gũi văn hóa với một loạt dân tộc ở Cao Nguyên.
Ông Bình Nguyên Lộc có chỗ khớp với ông Lê Mạnh Thát ở chỗ Bắc Tiến (người Việt Cổ đi từ tít dưới phương nam lên Bắc, mang văn hóa và tôn giáo của Ấn, Khmer…). Cũng khớp với khảo cổ Hòa Bình, Phùng Nguyên, Đông Sơn, Sa Hùynh.
Để rồi sau này về Nam mở cõi, người Việt hiện đại lại gặp những bà con của tổ tiên mình.
***
Mặc dù Vua Hùng và Văn Lang xuất hiện lần đầu (trong văn bản) là cuốn Việt Sử Lược do một hàng binh nhà Trần được tàu phong vương (ta gọi là Việt gian hoặc phản quốc), cho nên phần xạo là nhiều (xạo là để lấy le với địch, và xạo vì ông này là tay háo danh, thông minh, học giỏi). Tuy nhiên dù xạo cũng cho thấy là vua Hùng không phải là người gốc gác bản địa mà là dân di cư nên có thể làm được những việc mà dân ở đấy không thể làm được (võ hoặc vật chẳng hạn) nên Việt Sử Lược mới nói là “ảo thuật gia” và nhờ đó thống nhất được các bộ lạc và thành lập nước Văn Lang.
Sau này Ngô Sĩ Liên dựa vào, rồi thêm cả huyền sử, để viết hẳn đọan dài về Hùng Vương Âu Lạc An Dương Vương. An Dương Vương đoạn cuối có chỗ sau khi giết Mỵ Châu đã cầm sừng Tê rẽ nước biển mà đi xuống như Moses trong Cựu ước. Có lẽ vì điểm này mà Linh mục Kim Định quyết định dùng Lĩnh Nam Chích Quái để làm Kinh Hùng.

Vua Hùng chắc chắn là có thật. Cho dù xuất phát điểm, hoặc sự thật, vua Hùng chỉ là một ông tướng đứng đầu bộ lạc. Hùng Tướng hoặc Lạc Tướng. Phân tích của Bình Nguyên Lộc là có vẻ thuyết phục nhất nếu chỉ xét đoán về lập luận khoa học.
Vào cái link này và link này sẽ thấy tiếng Việt cho thấy dù vay mượn từ vựng rất nhiều của tiếng Tàu nhưng bản chất vẫn là Mon-Khmer và các nhánh ngôn ngữ gần nhất của tiếng Việt là: Mường, Khmer, Bahnar, Pacoh, Katu (một loạt các dân tộc anh em rất đỗi quen thuộc với chúng ta).
Và cũng như bác 3 ở đây nói, hay nếu ai chịu khó đọc Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi (có phần khảo dị rất hay) thì thấy nhiều truyện cổ tích của ta tương đồng với truyện cổ các nước Đông Nam Á hoặc Ấn Độ.
***
Cuối cùng, thế ngày Giỗ Tổ 11 tháng 3 Âm Lịch là từ đâu ra.
Rất có thể những người Việt Cổ, xuất phát là du mục săn bắn, khi định cư ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, đã chuyển qua trồng lúa và phát triển công nghệ (hoặc thuổng ở đâu đó) đến trình độ cao: thủy lợi, thời tiết và lịch mặt trăng.
Định cư ở đây đã lâu nhưng họ không quên cái Tết cổ truyền của mình. Cái Tết đó đã đi vào âm lịch và trở thành ngày Giỗ Tổ. Đó là ngày 11 tháng 3 âm lịch, rất gần với Tết của người Khmer.
***
Lịch cổ của các nước Đông Nam Á là Phật Lịch Cổ. Đây là lịch âm dương (năm thì theo mặt trời, tháng theo mặt trăng). Kỷ nguyên đầu tiên của Phật lịch cổ bắt đầu (Tết năm Không) là ngày …10 tháng 3. Kỷ nguyên thứ hai Tết bắt đầu với ngày đầu tiên của năm mới là … ngày 11 tháng 3 (năm 545 BC). Đây là khoảng thời gian mà người Mường cổ và người Chàm cổ bắt đầu xuất hiện rõ rệt từ Trung tới Bắc Bộ. Cũng là thời kỳ vua Hùng thống nhất các bộ lạc và thành lập nhà nước cổ Văn Lang. Và từ đó tục Têm Trầu (rõ ràng là từ xứ Nam Dương) trở thành nghi thức ngoại giao cấp … bộ tộc (hehehe) và sau này thành nghi thức tiếp khách của dân đồng bằng sông Hồng (miếng trầu đầu câu chuyện). Tiễn quân ra trận (Bà Triệu) nhân dân cũng “têm trầu cánh kiếm đưa chồng ra quân).
Các nước ĐNA đến đầu thế kỷ trước đều dùng lịch dựa vào Phật Lịch (cổ hoặc hiện đại) trừ nước mình. Chắc là do sau thời Mã Viện, hoặc thậm chí từ thời Triệu Đà, bị nó cưỡng bức. Bởi vậy nên Tết cổ truyền của người Việt cổ phải lẩn trốn trở thành Giỗ Tổ như một bản năng giữ gìn gốc tích dân tộc. Nó cũng giải quyết khúc mắc tại sao dân ta làm nông nghiệp, dùng lịch âm (của tàu) mà trống đồng lại thể hiện thờ mặt trời. Nó cũng cho thấy tại sao từ Nam Đảo, Tây Nguyên, Thanh Hóa, Hòa Bình, Đồng Bằng Bắc Bộ và Lưỡng Quảng bên kia dãy núi lại có trống đồng hoặc cồng chiêng. Mà càng lên phía bắc thì trống đồng càng đẹp (thế hệ sau đi xa hơn và đạt trình độ công nghệ cao hơn thế hệ trước) cũng như càng xuống hoặc vượt qua bên kia núi thì tài nguyên ưu đãi hơn, đúc được trống to hơn).
Sau 1000 năm bắc thuộc thì chủng tộc chắc lai Hán nhiều, văn hóa ảnh hưởng nhiều, đâm ra tâm lý vừa hâm mộ, vừa sợ, vừa ghét Tàu. Nhưng dân Việt Thường Thị ở Hồng Lĩnh (nơi vua Hùng suýt nữa đặt kinh đô) thì ít bị Hán hóa hơn. Từ đó nảy sinh ra một ông TBT coi Tàu khựa như rửa đít, đó là ông LD (hehehe).
***
Update thêm một chút.
Báo ThanhNiên hôm qua (22 tháng Tư) bắt đầu triển khai loạt bài về thời Hùng Vương với tên gọi “Dựng nước sau trận đại hồng thủy”. Ngoài các ý tưởng/quan điểm sử dụng của Lê Mạnh Thát thì bài báo còn dùng thêm cổ địa lý của Hoàng Ngọc Kỳ trong đó có nói khoảng hơn 4000 năm trước thì nước biển dâng đột ngột lên tới hơn 5m và phải hơn 1000 năm sau mới rút.
Nếu thông tin trong bài báo đúng (chắc là đúng thôi hehe) thì đây chính là lý do phần nào giải thích được việc các bộ tộc chủng Mã Lai (không phải là dân Malaysia ở KL bây giờ) di chuyển lên Phương Bắc. Nó cũng giải thích được là tại sao các dân tộc anh em của người Việt cổ cứ ở trên cao nguyên với trên núi cho đến tận bây giờ. Và rõ ràng là những bộ tộc kéo xuống được đồng bằng sớm (vua Hùng) có lợi thế hơn hẳn các tộc khác.
Tuy nhiên báo Thanh Niên gán luôn cho quả nước biển dâng kia với lại truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh thì đúng là cưỡng bức thông tin quá đáng. Đấy là chưa kể đến việc Sơn Tinh rất có thể là nhân vật có thật, tên phiên âm qua tiếng Hán là Tuấn, sống ở đời cuối của giai đoạn Hùng Vương, đánh nhau còn thua Thủy Tinh … Thục Phán An Dương Vương. Sở dĩ nói vậy vì tôi tin chắc rằng nếu có Thủy Tinh thì ông này chắn chắn là Thục Phán.
Người Thái Cổ (cũng cùng chủng Austronesian nhưng khác chi, ở mé trên của dãy núi phía Bắc). Chủng này tiếng Tàu gọi là Âu.
Người Việt Cổ (khác chi, đã xuống đồng bằng). Chủng này tiếng Tàu gọi là Lạc.
(Đoạn này có thể tìm trong cuốn “Lột trần tiếng Việt” của Bình Nguyên Lộc)
Phục Phán có thể là người Thái Cổ. Hùng Vương là người Việt Cổ.
Khớp với truyến thuyết thì sẽ là thế này. Thục Phán xuống đồng bằng hơi muộn so với Hùng Vương (Thủy Tinh đến muộn) buộc phải đánh nhau với liên quân bố vợ con rể Hùng Vương và Sơn Tinh (năm nào cũng dâng nước đánh Sơn Tinh ở Tản Viên). Về địa lý thì cũng khá khớp ở chỗ quân Thục Phán đi theo đường sông (sông Đà???) xuống đất Phú Thọ rồi đánh nhau với liên quân Hùng Vương Sơn Tinh ngược lên đến Tản Viên thì thua. Năm nào cũng đánh và cũng thua. Nên đi vào truyền thuyết thành Thủy Tinh không những hụt quả gái đẹp mà còn ghen tức năm nào cũng choảng nhau.
Thế nhưng truyền thuyết (của dân thua trận) không nhắc đến trận cuối cùng, Thục Phán thắng trận (do Hùng Vương ngủ quên trên chiến thắng, Sơn Tinh mải nhậu thịt thú rừng), và thống nhất hai tộc Âu và Lạc để thành lập nhà nước Âu Lạc
Chim Lạc là con chim gì?
Câu trả lời đúng nhất cho câu hỏi “Chim Lạc là chim gì?” chính là câu trả lời sau đây: “Chim Lạc là con chim trên mặt trống đồng nước ta”
Câu hỏi sau đây mới là câu khó: Con chim nguyên mẫu của Chim Lạc là chim gì?
Tổ tiên chúng ta là con Rồng cháu Tiên. Rồng là con giao long, tức là con thuồng luồng, tức là con cá sấu. Con rồng trên mặt trống đồng Hòa Bình và trống đồng Phú Xuyên vẫn là con cá sấu cách điệu bò lổm ngổm. Đến Lý-Trần vẫn còn phảng phất con cá sấu. Qua đời Lê thì râu ria vẩy viếc như cá chép, bây giờ trong Hoàng Thành vẫn còn mấy con đẹp ngất ngây, chỉ tội là rồng lai tàu. Đến thời Nguyễn thì chắc là rồng rởm, đếch biết ở đâu ra. Duy có chính ông Gia Long là rồng xịn, nếu như không nói là cực xịn.
Con cá sấu chắc sống đâu đó ở đồng bằng bắc bộ, nơi các cửa sông và đầm lầy. Cũng có đầy ở chỗ sông Hồng uốn khúc mà sau này nhà Lý dời đô về.
Thuở vua Hùng rời núi xuống trung du rồi lại gần các lưu vực, con cá sấu – thuồng luồng hẳn vẫn còn nhiều lắm nên tục xăm mình không phải là thời trang anh chị mà là trang phục bắt buộc để xuống sông. Vậy nên con Chim Lạc – dòng dõi nhà Tiên, cũng mới chỉ hình thành cũng tầm tầm thời đó. Hình thành qua tín ngưỡng và truyền kỳ. Từ con sấu nâng cấp thành con Rồng. Từ vua Hùng lộn xa quá thời Thục Phán để lờ mờ thành Lạc Long Quân (đúng ra phải là Âu Cơ do phóng chiếu ngược của tiềm thức kẻ thua cuộc). Còn đất mẹ, mẫu hệ, lộn về quá khứ mơ hồ thành Âu Cơ dòng dõi nhà tiên. Nông nghiệp và thời tiết, mẫu hệ và lực lượng sản xuất, đất mẹ và mặt trời đã gây ra sự lộn xộn âm dương khi đất mẹ có ông ngoại là mặt trăng phải thờ thần mặt trời (vai đức ông chồng tỏa nắng gieo mầm sống trên đất), mới có sự ẩm ương trong ngôn ngữ lúc gọi ông trăng lúc gọi chị hằng. Ông Trăng mới là chuẩn vì ông là chồng của bà Trời.
Cả hai vật tổ đều đẻ trứng nên mới thành truyền thuyết Âu Cơ Lạc Long Quân đẻ bọc trăm trứng. Khả năng bà Âu Cơ và ông Lạc Long Quân là bịa hoàn toàn, chỉ đến vua Hùng mới có thật.
Vật tổ là con Giao Long – Cá Sấu chắc mới xuất hiện sau này khi vua Hùng và một số bộ tộc anh em đã xuống đồng bằng. Cho nên giống nòi do vua Hùng đẻ ra mới là con Rồng. Còn vật tổ là con Chim Lạc hẳn đã theo đoàn người di cư từ phương nam dọc theo dãy Trường Sơn trong suốt hành trình có lẽ kéo dài hàng trăm năm. Cho nên giống nòi mới lùi xa một thế hệ nữa và gọi là Cháu Tiên. Con chim nguyên mẫu của Chim Lạc trên mặt trống đồng, ắt phải là một con chim gần gũi và gắn bó với tổ tiên của vua Hùng trong những năm dài du canh du cư từ Nam ra Bắc, từ núi xuống đồng bằng. Cái sự di cư để bảo tồn giống nòi ấy nó ăn sâu vào trong tiềm thức để rồi sau này có hàng triệu người từ bắc vào nam năm 1954, hay hàng trăm ngàn người từ đất này bỏ nước mà đi qua tận bên kia thái bình dương. Không phải là theo Chúa vào Nam, cũng không phải khổ quá không chịu được mà cột điện cũng phải đi. Mà là bản năng di cư để bảo tồn nòi giống nó thúc đẩy. Ai đã từng đi tàu đánh cá bé như cái lá tre trên mặt biển mênh mông mới có thể hiểu được đấy chính là bản năng. Còn không, thì chỉ vài người ra đi như Papillon người tù vượt ngục, chứ không thể nào ra đi cả ngàn cả vạn con người.
Trên hình trống đồng Hòa Bình và Phú Xuyên, Chim Lạc có hai loại đứng và bay. Con Chim Lạc đứng thì rất giống con Cốc (Cò, Vạc, Bồ Nông) là mấy con chim lội nước mò tôm bắt cá. Con Chim Lạc bay thì giống rất nhiều con chim khác mà xem kỹ thì chẳng giống con gì. Vậy nên giờ người ta cũng không biết con chim Lạc bản gốc là con chim gì nữa. Đã có lúc tôi đoán Chim Lạc cùng loài với chim Ch’Rao ở Tây Nguyên. Nhưng sau này nghĩ lại con Chim Lạc mỏ dài và to thế mà hót thì người nghe toác tai, không thể nào tổ tiên của vua Hùng thờ làm vật tổ được (còn con chim Ch’rao thì nó lại hót mới đau chứ).
Chim Lạc Bay có những đặc điểm sau đây:
+ Mỏ rất dài và to
+ Đầu có mào hoặc lông gáy xù lên (kiểu teenager bôi keo xịt tóc bây giờ)
+ Đuôi cánh én rất to.
+ Chân. Có hình trên trống không thấy chân đâu. Có hình thì có chân đang duỗi ra và ngắn hơn đuôi. (Hình không có chân là vì nhìn từ dưới lên chân duỗi ra ngắn hơn đuôi và ẩn vào đuôi)
+ Kích cỡ: không rõ. Có thể bé như con sáo, có thể to như đại bàng.
+ Sống theo đàn hay một mình: Cũng không rõ. Trên trống đồng thì rõ ràng là một đàn chim Lạc nối đuôi nhau bay vòng quanh mặt trời. Nhưng rất có thể chỉ là một con được cách điệu.
+ Có di cư hay không: Không rõ nốt. Nhưng có vẻ như là có bay về tổ dưới ánh trời chiều (ngược chiều kim đồng hồ).
Chim Lạc trên Internet:
Cũng giống như ngày Giỗ Tổ hay nguồn gốc của tổ tiên chúng ta, có rất nhiều thuyết giải thích Chim Lạc gốc là con chim gì nhưng tựu trung chỉ chia làm hai nhóm: nhóm Con Cò và nhóm Con Cắt.
Thuyết Con Cò
Thuyết phổ biến nhất thì cho rằng chim Lạc là con … Cò (hehehe) với giải thích về hình dáng của Chim Lạc rất giống Cò, Vạc và đặc biệt là giống con Hạc trong Văn Miếu. Ngoài hình dáng, thuyết này dựa vào việc con cò với nông nghiệp với …vua Hùng rất là gắn bó với nhau ở đồng bằng bắc bộ nên dần dần đuợc coi là vật tổ. Mặc dù thuyết này có nhiều nhóm con, nhóm thì cho rằng chim Lạc là con Cò, nhóm thì bảo con Bồ Nông, nhóm thì bảo là con Vạc. Đại khái đều là họ nhà cò lội nước mò tôm bắt cá, chả liên quan gì đến vua Hùng cả.
Thuyết này có hai điểm sai lớn:
+ Thứ nhất là vật tổ chim Lạc chắc chắn là có trước khi vua Hùng xuống đồng bằng và làm lúa nước (trước đó có thể làm lúa nếp lúa nương rồi) cho nên con Cò là con đến sau và đi vào dân ca, chứ không thể nào đi lên mặt trống đồng được.
+ Thứ nhì (cái này mới là sai chết người): con Cò khi bay, chân nó duỗi ra dài hơn đuôi nhiều. Tức là con Cò Đứng và con Chim Lạc Đứng nhìn hao hao giống nhau. Nhưng con Cò Bay thì cái chân nó duỗi dài ra khác hẳn con Chim Lạc Bay
Và một điểm sai nhỏ:
+ Trong Bộ Cò/Hạc thực ra chỉ có con Diệc là có cái bờm tóc ở gáy, các con khác nhẵn thín. Ngoài ra bộ Bồ Nông thì chân còn có màng.
(Mọi người có thể tìm tài liệu, ảnh về con Cò, Vạc, Bồ Nông, phân bộ khoa học (pháp danh) là Ciconiiformes)
Thuyết Con Cắt
Thuyết phổ biến thứ nhì là cho rằng Chim Lạc là bộ chim săn mồi (chim ưng, chim cắt, chim ó biển). Nói chung ai cũng khoái tổ tiên nhà mình là một con dữ tợn như vậy cho giống Hoa Kỳ hehehe. Tuy nhiên các con chim cắt, ưng, đại bàng đều có mỏ khoằm và ngắn. Sai hẳn so với cái mỏ dài ngoằng của Chim Lạc.

Trong thuyết này còn có ông đi tìm thấy con chim Lạc của tổ tiên ta ở … trong Văn Miếu thờ Khổng Tử.
(Mọi người có thể tìm tài liệu, ảnh về chim cắt chim ưng ở bộ Falconiformes)
Thế con Chim Lạc giống con gì nhất?
Với các đặc điểm trên trống đồng (trừ kích thước) thì chim Lạc giống con chim … Gõ Kiến (Woodpecker) nhất. Nghe thì buồn cười, nhưng con Chim Lạc cực kỳ giống một loài Gõ Kiến lưng đỏ và có sừng mào tên là Ivory-billed Woodpecker. Nhưng con này sống ở Hoa Kỳ và Cuba.
Con thứ nhì giống chim Lạc là con Gõ Kiến Lưng Lửa tên là Greater Flameback sống ở rừng rậm Đông Nam Á.
Con Gõ Kiến có loài sống cô độc, có loài sống theo đàn, cũng có loài di cư. Chúng cũng có tổ và chiều chiều bay về sau một ngày kiếm mồi ăn. Cách chúng dùng mỏ có lẽ đã gợi cho tổ tiên của vua Hùng cách làm rìu để đi săn và dùng giáo nhọn để chọc lỗ gieo hạt; nên hình người trên trống đồng hoặc là cầm giáo có mũi chĩa xuống, hoặc là cầm rìu lưỡi dài như mỏ chim gõ kiến.

Vậy là Gõ Kiến giống Chim Lạc nhất. Nhưng Chim Lạc có phải là Gõ Kiến không thì đúng là bó tay. Nếu đúng thì cũng rất hay bởi nó cho thấy tổ tiên chúng ta là dân sơn cước chăm chỉ làm nương rẫy hơn là săn bắn thú rừng.
***
Có ai tự hỏi cái tên Gõ Kiến có từ bao giờ không? Chắc chắn tên này có khi chúng ta biết rằng con chim Gõ Kiến nó dùng mỏ và lưỡi để bắt kiến. Khi nào chúng ta biết việc này? À, có khi rất gần đây. Thậm chí cực kỳ gần, sau khi người Pháp đến Đông Dương nữa kìa.
Còn có ai tự hỏi về cái khăn mỏ rìu không? Khăn mỏ rìu là chỉ hình thức chít khăn đội đầu của người nông dân đi làm đồng, xa hơn nữa là của người tiều phu, và xa hơn nữa là của những người thợ săn du cư. Cái thắt nút và “mỏ rìu” rũ xuống có giống đầu và mỏ con chim Lạc không? Quá giống. Tại sao “rìu” là một từ cổ thuần Việt lại dính đến dụng cụ lao động (lưỡi rìu) và khăn chít đầu vừa là để tóc dài không xõa ra khi đi rừng, vừa là để che nắng khi làm ruộng. Hẳn trước đó tổ tiên chúng ta thấy trong thiên nhiên một loài chim có cái mỏ như vậy rồi từ đó gọi “chim rìu” hằng ngày bổ củi (bắt kiến), rồi đến “lưỡi rìu” bằng đá bằng đồng, rồi đến “khăn mỏ rìu” chít ngang tai. Hay Chim Lạc là Chim Rìu. Còn Chim Rìu biết đâu là chim Gõ Kiến???

(Comment bên Blog của Huy Minh vẫn nhiều người nói rằng Chim Lạc là hình ảnh lúa nước đồng bằng Bắc Bộ Cò Lả bay ra bay vô. Cái hồi đúc trống đồng, làm gì đã có đồng bằng ruộng lúa nước đủ rộng để chim cò bay ra bay vào hả các ông. Lúc đó ruộng của Vua Hùng may ra bằng cái ruộng lúa nương trên miền núi bây giờ. Vả lại con Chim Lạc nó hình thành từ quá khứ của Vua Hùng, thì mới đủ tư cách lên mặt trống rồi lượn quanh mặt trời hoành tráng vậy chứ.)