ĐÔI MẮT LÝ SƠN
Bút ký của NGUYỄN VĂN DŨNG
Mùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn
– Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy
một chầu du ngoạn Lý Sơn.
Hồi ấy, qua các em tôi chỉ biết Lý
Sơn là “Vương quốc của tỏi”, là nơi biển trời lung linh quyến rũ. Không may hôm
lên đường gió to, biển động. Chiếc tàu hải quân chạy lòng vòng bên ngoài không
sao vào được bờ. Thế rồi chiến tranh ngày càng ác liệt, thầy trò ly tán, Lý Sơn
cũng theo gió bụi mà nhạt nhoà dần trong tâm tưởng tôi.
Gần đây, có dịp tìm hiểu thêm mới
hay Lý Sơn không chỉ là “Vương quốc của tỏi”, không chỉ là “Đảo ngọc” lung linh
mời gọi, mà còn gắn liền với hơn 400 năm lịch sử oai hùng, là điểm tựa tiền
tiêu – nơi xuất phát những binh đội Bắc Hải vượt biển ra Hoàng Sa – Trường Sa
khẳng định chủ quyền và bảo vệ biên cương tổ quốc. Thế là tôi quyết định theo
đoàn cứu trợ ra Lý Sơn.
Huyện đảo Lý Sơn cách đất liền 24
km, diện tích 10 km2, gồm 03 xã, khoảng hơn 20 ngàn dân. Lý Sơn có 2 đảo. Xã An
Vĩnh và An Hải thuộc Đảo Lớn, xã An Bình thuộc Đảo Bé. Trận bão số 9/2009, Lý
Sơn là tâm điểm bị tàn phá nặng nề nhất, trong đó xã An Bình của Đảo Bé gần như
tan hoang. Chúng tôi chọn cứu trợ Đảo Bé. Người ta nói Đảo Bé là vùng đất của
“tám không”: không điện, không nước (mùa đông dùng nước mưa, mùa hè phải mua
nước ngọt từ Đảo Lớn), không đường, không quán ăn, không nhà trọ, không thông
tin liên lạc, trường học lèo tèo, trạm xá thoi thóp… Duy chỉ một cái có, đó là
tấm lòng. Quà cứu trợ cho các gia đình nạn nhân xê xích nhau từ 20 triệu đến
500 ngàn đồng, nhưng tuyệt nhiên không hề thấy cảnh kiện cáo, phân bì nhau như
nhiều vùng khốn khó khác chúng tôi từng đi qua. Cái đảo nhỏ chỉ bằng bàn tay,
loanh quanh một vòng là hết; đi tới đâu chúng tôi cũng nhận được sự chào mời
rộng mở, và những đôi mắt biết cười. Vậy đó – tấm lòng. Có phải nhờ thế mà họ
trụ được giữa sóng gió trùng khơi!
Buổi chiều, chúng tôi trở lại Đảo
Lớn bắt đầu cuộc khám phá Đảo Ngọc. Lý Sơn là dấu tích của núi lửa đã tắt từ
hàng triệu năm trước. Năm ngọn núi lớn chiếm hơn nửa diện tích đảo như nâng Lý
Sơn lên từ biển xanh, trông xa xa, Lý Sơn như con đại bàng vỗ cánh giữa trời
nước mênh mông.
Ấn tượng đầu tiên của tôi là Lý
Sơn quá đẹp. Không mênh mông như Phú Quốc, không huyền bí như Côn Đảo; Lý Sơn
nhỏ nhắn và sinh động, hoang dã và cao sang, mịt mù và gần gũi. Phía đông Lý
Sơn là những ghềnh đá dựng đứng với vô số hang động, trong đó có Chùa Hang vào
loại danh thắng độc đáo; phía tây Lý Sơn là những bãi cát mênh mang, mời gọi. Biển
Lý Sơn có màu xanh chi lạ – nó xanh màu ngọc bích. Tôi chỉ gặp loại màu xanh
này hai lần trong đời, một lần ở vùng biển Seattle phía Tây – Bắc nước Mỹ, và
một lần ở Địa Trung Hải hồi tôi đến thăm quê hương Napoléon… Một vị bô lão cho
biết, thuở xưa Lý Sơn xanh thẳm rừng nguyên sinh. Hèn chi người ta gọi Lý Sơn
là “Đảo Thần Tiên”, chắc không phải chỉ vì trên núi còn dấu vết bàn cờ tiên, mà
vì trú xứ của quí chư tiên thì hẳn là nơi non bồng nước nhược.
Buổi chiều tha thẩn ngắm hoàng
hôn, buổi tối nhâm nhi cốc “rượu dú” chờ trăng mọc, lòng lâng lâng khinh khoái…
là niềm hạnh phúc dễ gì có được giữa cái cõi thế quá nhọc nhằn này. Còn với
những “tâm hồn ăn uống”, hãy tin tôi đi, Lý Sơn có đủ các loại hải sản quí hiếm
chẳng nơi nào có được: đồn đột, vích, đồi mồi, cá thu, cá mú, cá dìa, mực nang,
mực ống, ốc xà, ốc lờ, ốc bàn tay, ốc tai tượng… cùng với các loại gỏi tỏi, gỏi
cá đặc sản, ai có dịp thưởng thức sẽ hương vị để đời.
Đứng trên ghềnh đá bờ Đông vác
mặt nhìn ra biển khơi, tưởng như nghe được hơi thở của Hoàng Sa – Trường Sa.
Biển mênh mông, sâu thẳm, sóng tung bọt trắng bờ. Rõ ràng đây là loại bãi biển
chỉ dành cho cánh nam nhi đại trượng phu: chí khí, niềm tin, khát khao, và
những chuyến đi hùng tráng.
Ngày 28/4/2007, tỉnh Quảng Ngãi
khai trương tuyến “Du lịch biển đảo Lý Sơn”. Vậy là đã hơn hai năm, nhìn quanh
vẫn chưa thấy dấu hiệu gì của du lịch Lý Sơn: vẫn con “đường liên xã” lở lói,
chật hẹp, nhộn nhạo đủ thứ thập loại chúng sinh; vẫn những ngôi nhà lụp xụp,
chen chúc; vẫn những bãi tắm lổn ngổn rác; vẫn chẳng có công trình nghỉ dưỡng
nào ra trò… Xây dựng đảo ngọc Lý Sơn thành điểm du lịch là xu thế tất yếu.
Nhưng phải làm sao vượt khỏi trình độ làm du lịch kiểu chỉ đón được khách một
lần. Và phải thấy cho được những hiểm họa do ngành kinh doanh không khói này
gây ra. Đó là môi trường thiên nhiên bị huỷ hoại, truyền thống văn hóa dần biến
mất; do không có qui hoạch tổng thể, mạnh ai nấy làm, nên không lâu sau “Đảo
Ngọc” biến thành như mâm đồ chơi của con trẻ; và phải định hướng cho được du
lịch Lý Sơn sẽ là loại hình du lịch gì: sòng bạc, ăn chơi, rập rờn, du hí…hay
là du lịch lịch sử, lễ hội, tâm linh và nghỉ dưỡng; đặc biệt (đây mới là điều
đáng quan tâm nhất) không thể để cho những di tích lịch sử vốn là phần hồn của
Lý Sơn bị xâm hại.
Mà trên đất Lý Sơn, những di tích
lịch sử thì nhiều lắm; ấy là những cứ liệu xác thực và sinh động nhất về chủ
quyền của dân tộc với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là Âm Linh Tự với
bia “Chiến sĩ trận vong” – nơi thờ phụng vong linh những chiến sĩ Hoàng Sa, là
đình làng An Vĩnh – nơi làm lễ xuất quân bảo vệ biển đảo, là những ngôi mộ gió
– nơi chôn vọng các chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa chết mất xác trên
biển; là những miếu thờ, lễ hội, tế lễ, những câu chuyện kể, những bài tráng ca
nao lòng…
Rõ ràng, Lý Sơn gắn liền với giai
đoạn lịch sử mở mang bờ cõi và khẳng định chủ quyền của các Chúa Nguyễn và
Vương triều Nguyễn. Nhiều tài liệu lịch sử ghi rõ, vào nửa đầu thế kỷ 17, các
Chúa Nguyễn đã tổ chức “đội Hoàng Sa”, tuyển dân binh từ xã An Vĩnh, huyện Bình
Sơn, phủ Quảng Ngãi ra khai phá quần đảo Hoàng Sa: “Trước họ Nguyễn đặt đội
Hoàng Sa 70 suất, lấy người An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng hai
nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng năm chiếc thuyền câu nhỏ,
ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo”… Tài liệu còn ghi rõ: “Nếu đi từ xã An Vĩnh
(Lý Sơn) bằng thuyền về phía Đông Bắc thì sau ba ngày ba đêm sẽ tới Hoàng Sa.
Vùng đảo này các núi linh tinh có hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này
sang hòn kia đi một ngày hoặc vài ba canh thì đến; trên núi có chỗ có suối nước
ngọt, có đảo có bãi cát vàng dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn. Các sản
vật tự nhiên ở quần đảo này gồm có yến sào, đồi mồi, hải cẩu… có thứ ốc vân tai
to như chiếc chiếu và chim có hàng ngàn hàng vạn, thấy người thì vây quanh,
không tránh…”. (Phủ biên tạp lục của Lê Quí Đôn – 1776).
Đến Gia Long, Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức… đời nào cũng đều nỗ lực quản lý vùng biển đảo rộng lớn trên Biển
Đông, nhất là với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đặc biệt từ thời Minh
Mạng, triều đình thành lập hẳn một đội thủy quân quy mô, ra đảo làm nhiệm vụ đo
đạc thuỷ trình, vẽ bản đồ và dựng bia chủ quyền: “Tháng giêng năm Ất Hợi (1815)
sai bọn Phạm Quang Ảnh thuộc đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa xem xét đo đạc thuỷ
trình, cắm mốc chủ quyền và canh giữ biển đảo…” (Đại Nam Thực Lục chính biên).
Gần đây người ta còn tìm thấy một
sắc chỉ của vua Minh Mạng được dòng họ Đặng ở Lý Sơn cất giữ suốt 175 năm, qua
6 đời, tại nhà thờ Đặng tộc. Đó là tờ lệnh, phái một đội thuyền gồm ba chiếc, với
24 lính thuỷ, ra canh giữ Hoàng Sa, ngày 15 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 15, tức
năm Ất Mùi – 1835: “Giao cho Võ Văn Hùng ở Lý Sơn chọn những thanh niên khoẻ
mạnh và giỏi nghề bơi lặn để gia nhập đội thuyền, giao cho Đặng Văn Siểm lo
kham việc đà công (người dẫn đường), giao cho Võ Văn Công phụ trách hậu cần”.
Thế đấy, một thời gian dài lịch
sử, năm nào trên đất Lý Sơn cũng đều có con em ưu tú của các dòng họ Phạm, Võ,
Nguyễn, Đặng, Lê, Dương, Trần, Trương “lãnh chiếu vua ban” ra Hoàng Sa làm
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền đất nước.
Do biển khơi sóng gió khó dò, lại
chỉ bằng phương tiện ghe thuyền thô sơ, nên thường đó là những cuộc ra đi không
có ngày trở lại.
Hoàng Sa trời nước mênh mông,
Người đi thì có mà không thấy về.
Bởi thế trước khi đội quân Hoàng
Sa giong buồm ra khơi, người dân Lý Sơn đắng lòng làm lễ tế sống những chiến
binh là con em mình. Người ta gọi đó là “lễ khao lề tế lính Hoàng Sa”. Lễ tế
được tổ chức dịp tiết thanh minh, tại Âm Linh Tự – nơi ngày nay trở thành di
tích lịch sử vô giá. Đồ tế lễ gồm chiếc thuyền mã bằng bè chuối, hình nhân thế
mạng, gạo, muối, củi lửa, và các vật dụng khác y như hành trang của người chiến
binh Hoàng Sa. Lễ tế được tiến hành uy nghiêm và thành kính. Sau cùng, người ta
thả hết đồ tế lễ xuống biển, để người chiến sĩ yên tâm lên đường vì tin rằng đã
có người thế mạng mình. Đã 300 năm qua, người dân Lý Sơn vẫn duy trì “lễ khao
lề thế lính Hoàng Sa” mỗi đầu xuân như một truyền thống hào hùng, là niềm tự
hào và biết ơn của con dân đảo đối với tổ tiên.
Khắp trên đảo Lý Sơn ngày nay còn
cả hàng ngàn ngôi “Mộ gió” – nơi chôn vọng các chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ
Hoàng Sa chết mất xác trên biển. Thuở ấy, hành trang của mỗi chiến binh Hoàng
Sa, ngoài lương thực cho sáu tháng hành quân, còn có một đôi chiếu, bảy đòn
tre, bảy sợi dây mây, và một thẻ bài có khắc tên họ, bản quán, phiên hiệu, để
khi phải hy sinh thì đồng đội bó xác vào chiếu rồi thả xuống biển. Nếu may mắn,
người trong bờ khi vớt xác sẽ biết tung tích của người hy sinh.
Hoàng Sa lắm đảo
nhiều cồn,
Chiếc
chiếu bó tròn mấy sợi dây mây.
Nhưng thường là không may. Đó là
trường hợp sau sáu tháng đội quân Bắc Hải không trở về, cũng không ai tìm thấy
xác. Ở nhà, người thân cho người lên Giếng Tiền, lấy đất sét, nhào nhuyễn, rồi
nặn thành tượng người chết với đầy đủ các bộ phận y như người thật. Xong, vị
chủ lễ lập đàn cúng chiêu hồn, gọi linh hồn người chết nhập vào tượng đất. Sau
cùng, người ta tiến hành nghi thức an táng như một đám tang bình thường – cũng
khâm liệm với quần dài, áo the, khăn xếp, cùng quan quách đầy đủ; cũng hạ
huyệt, cũng đắp mộ. Với sự hỗ trợ của hương khói và lễ nghi thiêng liêng huyền
bí, gia đình, người thân tin rằng dưới phần mộ ấy là xác thân của con em họ.
Ngày giỗ, người thân cũng ra mộ thắp hương, cầu nguyện; dịp thanh minh cũng đi
tảo mộ như bao ngôi mộ khác. Theo các vị bô lão thì mộ gió đầu tiên ở Lý Sơn
cách nay 200 năm là mộ của cai đội Phạm Quang Ảnh cùng 24 chiến binh của hải
đội Hoàng Sa. Với tốc độ và kiểu cách phát triển như hiện nay, không biết rồi
đây số phận của những ngôi mộ gió ấy sẽ như thế nào? Có còn ai xem đó là di tích
văn hoá, lịch sử, bởi vì sâu trong lòng nó cũng là xác thân của bao anh hùng đã
hy sinh vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc?
Sẽ thiếu sót nếu như viết về Lý
Sơn mà không nhắc chi đến con người Lý Sơn. Về “Người Lý Sơn”, chỉ cần nói một
câu: Người Lý Sơn sinh ra giữa biển, lớn lên trong biển, trưởng thành sống và
chiến đấu trên biển, già thao thức cùng biển, chết quay đầu về biển. Cũng có
thể nói ngắn gọn hơn: Người Lý Sơn đậm vị biển, mạnh như bão biển, tâm hồn lộng
gió biển. Bởi thế, không lạ gì khi ta gặp trong đời thường, người Lý Sơn cao
lớn và rắn rỏi, phóng khoáng và tốt bụng, can trường và thuỷ chung. Hôm đi thăm
đình làng An Hải, chiếc honda của chúng tôi trở chứng giữa đường – chắc là hết
xăng. Bỗng từ sau xẹc tới một quí ông Lý Sơn vạm vỡ, sôi nổi: “Qua đây. Đây
thôi mà”. Tôi nghĩ chắc nhà ông ta có bán xăng lẻ nên dắt xe theo, vừa vào sân
quí ông Lý Sơn bèn phán tiếp: “Để xe đó, cứ lấy xe tui mà đi. Không sao”. Hoá
ra là thế…
Người Lý Sơn vốn là hậu duệ của
những trang hảo hán vượt biển khai phá Lý Sơn từ hàng trăm năm truớc. Cũng từ
hàng trăm năm trước, dưới thời các Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn, họ là
những chiến binh ra Hoàng Sa – Trường Sa xác lập chủ quyền và bảo vệ biên cương
tổ quốc. Họ đã chiếm Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa, rồi bây giờ khoanh
vùng lưỡi bò tuyên bố nọ kia. Ngày nay, mỗi lần ra biển, Người Lý Sơn không chỉ
đối mặt với sóng gió ba đào mà còn cả với tàu “lạ” cướp phá. Nhưng Người Lý Sơn
vẫn bền gan bám biển. Không phải chỉ vì miếng cơm manh áo, cũng không phải vì không
biết sợ, mà trên hết là vì niềm kiêu hãnh và tự trọng của con dân một nước Việt
anh hùng. Suốt 400 năm lịch sử, con dân Lý Sơn vẫn luôn là những chiến sĩ kiên
cường vì chủ quyền và độc lập dân tộc như thế. Điều ấy chưa đủ cho chúng ta
nghiêng mình kính phục Người Lý Sơn hay sao?
A, còn thêm một đặc điểm nữa của
Người Lý Sơn, đó là biết ước mơ. Buổi chiều đến thăm một trong những danh nhân
của Lý Sơn – anh Nguyễn Văn Tùy. Anh nổi tiếng thế giới về khả năng “ăn tươi
nuốt sống”; từ giun, dế, rắn, rít, cả cá độc, cóc độc, rắn độc, nhện độc… nói
chung bất cứ con gì anh cũng đều ăn tươi nuốt sống được cả. Rất nhiều phóng sự
đầy đủ về anh, kể cả chi tiết nhờ ăn tươi nuốt sống mà anh có thêm khả năng
linh giác tuyệt vời; duy điều này tuy cũng vào hàng quan trọng không kém thì
các nhà báo đã chẳng quan tâm, rằng anh còn là một nghệ sĩ đàn cò, và là tay
mandoline số dách. Sau gần hai giờ đàm đạo đủ thứ chuyện trên đời, tôi xin anh
một câu hỏi cuối cùng: “Nếu được quyền ước, thì anh mơ ước điều gì?”. Một
thoáng trầm tư, anh nói: “Tôi mơ có một chiếc cầu nối liền Lý Sơn với đất liền,
và ước mơ đất nước mình giữ vững chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa”. Tôi lạnh
người… Thế đấy, như bao thứ quí giá khác lỡ đánh mất, nếu chí ta vẫn còn nghĩ
đến, lòng ta vẫn còn mơ về, thì thế tất sẽ còn ngày tìm lại được.
Đã gần nửa thế kỷ từ lần đầu tôi
lỡ chuyến thăm Lý Sơn. Bởi thế tôi định đặt tên cho bài viết này là “45 năm
giấc mơ Lý Sơn”. Nhưng rồi vì một sự cố bất ngờ khiến tôi đổi ý: Buổi sáng cuối
cùng trên bến cảng đợi tàu cá về lại đất liền, tôi gặp một cô gái Lý Sơn. Nàng
– dong dỏng cao, đôi mắt sâu thẳm, xa vắng, và buồn vời vợi. Đó là đôi mắt tôi
từng gặp trong suốt bốn ngày lăn lộn trên đất Lý Sơn. Nhưng tôi không hiểu nổi
cái gì trong những đôi mắt ấy làm mình xao xuyến đến vậy. Nay tình cờ gặp nàng,
tôi bỗng ngộ ra… Lý Sơn là ốc đảo biệt lập, là điểm tựa tiền tiêu, là nơi đầu
sóng ngọn gió, là nơi xuất phát những đoàn hùng binh bảo vệ biên cương tổ quốc.
Lịch sử của Lý Sơn là lịch sử của những chuyến ra khơi, là lịch sử của những
tháng năm mỏi mòn chờ đợi, trông ngóng: tin tức từ đất liền, chồng con từ đoàn
tàu đánh cá, những chiến binh hải đội Hoàng Sa… Nếu chọn một địa điểm thích hợp
trên đất nước mình để đặt tượng đài Hòn Vọng Phu, tôi cho rằng đó phải là Lý
Sơn. Nhưng trên núi Thới Lới hiện nay không có Hòn Vọng Phu nào cả. Phải chăng
vì Lý Sơn đã có một hình tượng khác sinh động hơn, biểu cảm hơn, đó là ĐÔI MẮT.
Mãn mùa tu hú kêu
thanh,
Cá chuồn đã vãn sao
anh chưa về.
Chờ đợi và chờ đợi – từ ngày này
sang ngày khác, từ đêm này sang đêm khác, từ tháng này sang tháng khác, từ năm
này sang năm khác, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác…. không bao giờ thôi chờ đợi.
Chờ đợi – được kết tinh thành máu, thành ý, thành khí, thành thần, thành gien…
di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ đời này sang đời khác, làm nên nét
đặc trưng của Người Lý Sơn: đôi mắt sâu thẳm và đau đáu chờ mong. Vâng. Đó là
lý do vì sao tôi quyết định đổi tên bài viết này thành …….ĐÔI MẮT LÝ SƠN.
VÀ VÌ SAO TÔI RA LÝ SƠN
hungbin 15/06/2013
1.
Anh sẽ đi Lý Sơn để chụp ảnh
Anh sẽ đi Lý Sơn để câu cá
Anh sẽ đi Lý Sơn để tắm biển
Anh sẽ đi Lý Sơn…
Lý Sơn là một điểm đánh dấu trên
bản đồ những chỗ cần đến của tôi, đã 3 năm nay.
Tôi đã nghiên cứu nhiều lộ trình,
hỏi thăm nhiều người, có bận đã định tự đi, nhưng mãi tôi vẫn chưa đi…
Vì sao? Vì Lý Sơn không phải đơn
giản là chỗ để bạn chỉ đến chụp ảnh, tắm biển hay câu cá.
Mỗi ngày, đọc báo về chuyện ngư
dân Lý Sơn, tôi lại thấy mình nhỏ bé.
Tôi thấy những đồng bào Lý Sơn
lớn lao hơn mình nhiều, nơi đầu sóng ngọn gió ấy…
2.
Ở Lý Sơn có nhiều mộ gió, mộ gió đắp bằng cát, cả Lý Sơn đâu cũng là cát.
Đó là những ngôi mộ không có hài
cốt, nếu may mắn thì chỉ có một hình nhân bằng đất sét được thế chỗ, của những
người đã vong mạng ở khơi xa, ở Hoàng Sa.
Có những ngôi mộ gió từ thời Hải
Đội Hoàng Sa từ 200 năm trước vẫn được hương khói ở đây. Ở nghĩa trang có mộ
gió, ở ngoài ruộng tỏi có mộ gió, ở
trong sân nhà mỗi ngư dân cũng có mộ gió.
Vào một giấc trưa, tôi thấy một
phụ nữ lặng lẽ quì bên mộ gió trong sân nhà, rồi chậm rãi tưới bình rượu lên
mộ.
Tôi tự hỏi người mất đi là ai,
chồng hay con trai chị, vì tôi không thể đoán tuổi chị qua nét mặt đen bạc bời
gió biển, vì tôi không hiểu nỗi đau của chị đến mức nào và làm sao chị có thể
vượt qua được.
Ở Lý Sơn đâu cũng là cát, những
con đường cát, những cánh đồng cát, những ngôi mộ cát… dưới cái nắng gắt gay
của mặt trời ngoài biển, hạt cát Lý Sơn khô cong, nhám rạt.
Hàng ngàn con người sống trên
cát, chết nằm trong cát.
Những cái cây tỏi, cây hành, cây
mè… mọc lên từ cát, được những bàn tay đen sạm của các chị, các mẹ ở đây chăm
bẵm, nâng niu… chúng đã không phụ lòng người, chúng trổ những màu xanh tươi
mắt.
Tôi vẫn không hiểu như đã không
hiểu sự chịu đựng của người phụ nữ Lý Sơn, làm sao những cây lá xanh tốt ấy lại
được trồng trên cát, những ruộng cát trắng tinh, bỏng rát trong gió biển.
4.
Ở Lý Sơn có nhiều cờ, cờ Tổ Quốc
màu đỏ với ngôi sao vàng, cờ bay phần phật trong gió biển.
Ra khỏi Sa Kỳ có thể nhận ra điều
đó, những con thuyền cắm đầy cờ thả lưới ngoài biển, đến cái thúng chèo giăng
câu cũng có cắm cờ.
Ở trên đảo cũng rực màu cờ, nhà
cũng treo cờ, trường học cũng treo cờ, cả đến những ngôi mộ gió cũng cắm cờ… có
những ngọn cờ mới đỏ rực, cũng có những ngọn cờ bạc màu, có vài ngọn cờ đã
rách.
Nhìn ngọn cờ ở Lý Sơn mới thấy
người ngư dân ở đây thật kiên cường.
Nếu tàu nào treo cờ Việt Nam thì
chỉ cần ra khỏi Lý Sơn hơn chục hải lý, tàu đó có nguy cơ đối mặt với “tàu lạ”,
với “Hải Giám”… tàu đó có nguy cơ bị đuổi, bị bắn, bị đánh đắm, bị bắt… và thực
tế những câu chuyện như thế xảy ra mỗi ngày, ở mỗi nhà trên Lý Sơn…
Nhưng người ngư dân Lý Sơn vẫn
treo cờ trên tàu, tàu nhỏ treo một cờ, tàu nhỡ treo hai cờ, tàu lớn treo bốn
cờ, sáu cờ… cờ nào bị rách, bị bạc màu được thay cờ mới.
Để trong đất liền, để ngoài Hoàng
Sa, dễ nhìn ra màu đỏ phần phật trong gió với ngôi sao vàng ở giữa.
5.
Ở Lý Sơn có hơn hai chục ngàn con
người, đa phần là ngư dân hoặc bằng cách nào đó sống nhờ vào biển, mọi người
đều được mặt trời và gió biển nhuộm thành đen sạm, mọi người đều nói giọng xứ
Quảng nặng trịch và khó nghe, mọi người đều thương nhau và sống mở lòng ra với
người khác.
Ở Lý Sơn có hơn hai chục ngàn con
người, có rất nhiều trong số đó là hậu duệ của những người nhận sắc chỉ của
triều đình ra định cư từ hai trăm năm trước, theo chân Hải Đội Hoàng Sa Kiêm
Quản Bắc Hải để khẳng định chủ quyền Tổ Quốc, vì chiếu vua đã dạy rằng: Bản
Quốc Hải Cương Hoàng Sa Xứ Tối Thị Hiểm Yếu”.
Có lẽ nhiệm vụ của tiền nhân mở
cõi năm xưa trên hòn đảo này đã được di truyền lại cho hậu duệ ở Lý Sơn hôm
nay, những hải binh bất khuất.
6.
Ở Lý Sơn có nhiều trẻ em, những
đứa trẻ đem nhẻm và hiếu động, buổi sáng lúc nước lớn chúng thường chơi với
nhau, đứa lớn ẵm đứa nhỏ, chúng chơi những trò chơi trẻ con như mọi đứa trẻ
khác, như mọi đứa trẻ khác…
Chỉ có một điều khác là khi chiều
lại, lúc thủy triều rút xuống khỏi ghềnh, có nhiều trong những đứa trẻ ấy lại
loi ngoi trong trong lớp trầm tích của biển, bắt vài con ốc, moi vài con sò,
bắt vài con cá nhỏ cho buổi cơm chiều hoặc để chị, mẹ chúng đem bán trong buổi
chợ sớm mai.
Chỉ có một điều khác là có nhiều
trong những đứa trẻ ấy, cứ đến bữa cơm lại ra nơi mộ gió ở sân sau, ở ruộng
tỏi, khoanh tay mời cha, mời anh, mời chú ăn cơm.
Những đứa con trai đôi khi là đàn
ông duy nhất trong nhà, những trẻ-con-đàn-ông này không khóc, nhưng trong ánh
mắt của chúng có nỗi buồn cố hữu.
Chỉ có một điều khác là những
trẻ-con-đàn-ông ấy ngày mai sẽ lại giong thuyền ra khơi xa, nơi cha anh chúng
đã ngã xuống, với cánh cờ Tổ Quốc màu đỏ tươi có ngôi sao vàng ở giữa bay phần
phật trong gió biển.
7.
Và tôi đã ra với Lý Sơn, khi về tôi vẫn nhớ mãi
ĐÔI MẮT LÝ SƠN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét