(Tạp chí “Quan hệ quốc tế hiện
đại”. Trung Quốc, số 5/2011)
Sau khi đã xác định
mục tiêu “trở lại châu Á” vào năm 2009, Mỹ đã đẩy nhanh chiến lược tiến về phía
Đông trong năm 2010. Họ đã tăng cường can dự ngoại giao và quân sự đối với khu
vực châu Á – Thái Bình Dương, nhanh chóng bố trí lại thế trận ở khu vực này,
nhằm thực hiện quyền lãnh đạo và quyền kiểm soát đối với khu vực. Hành động chiến
lược chủ yếu gồm:
Thứ nhất, Mỹ sử dụng sự kiện chìm tàu Choenan của Hàn
Quốc (tháng 3/2010) để tăng cường trở lại ảnh hưởng và địa vị lãnh đạo cục diện
an ninh Đông Nam Á. Sau khi xảy ra sự kiện này, Mỹ ủng hộ các phản ứng cứng rắn
của Hàn Quốc như: Tiến hành tập trận bắn đạn thật ở khu vực tranh chấp, liên
tục gây căng thẳng trong quan hệ Triều Tiên – Hàn Quốc. Mỹ đã lợi dụng sự phụ thuộc
về an ninh ngày càng nhiều của Hàn Quốc đối với Mỹ để tăng cường quan hệ đồng
minh Mỹ – Hàn, hiệu quả trực tiếp nhất là kéo dài thời gian chuyển giao quyền
chỉ huy tác chiến cho Hàn Quốc từ năm 2012 sang năm 2015. Thứ hai là họ thiết
lập được cơ chế hội đàm “2+2” (Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng). Trong thời
gian đó, Ngoại trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng hai nước đã đến thị sát giới
tuyến 38 vĩ độ bắc giữa Triều Tiên và Hàn Quốc. Ngoài ra, Hội nghị Đảm bảo an
ninh Hàn – Mỹ lần thứ 42 đã quyết định thiết lập “Uỷ ban Chính sách răn đe lâu
dài”, thực hiện cam kết của Mỹ làm chiếc ô hạt nhân và đảm bảo cho Hàn Quốc khả
năng tấn công bằng vũ khí thông thường. Hàn Quốc bày tỏ sẽ tích cực xem xét để triển
khai hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ. Đồng thời với tăng cường quan hệ đồng
minh Mỹ – Hàn, Mỹ cũng lợi dụng tình hình căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên để
tăng cường quan hệ đồng minh Mỹ – Nhật. Mỹ đã từ chối thoả hiệp với chính quyền
Hatoyama có khuynh hướng “thoát khỏi Mỹ” trong vấn đề căn cứ quân sự Futenma ở
Okinawa, làm cho ông này bị mất chức do sức ép trong nước và của Mỹ. Sau khi
chính quyền Naoto Kan cầm quyền, Nhật Bản trở lại chính sách phụ thuộc Mỹ, chấp
nhận xử lý tranh cãi về căn cứ quân sự theo hiệp định Nhật – Mỹ được ký năm
2006. Đồng minh Mỹ – Hàn, Mỹ – Nhật, Mỹ – Nhật – Hàn từ mối quan hệ qua lại
song phương đã trở thành sự phối hợp giữa ba bên. Do sự tác động mạnh mẽ của Mỹ,
Nhật Bản và Hàn Quốc đã tăng cường hợp tác ngoại giao và an ninh. Tháng 7/2010,
Nhật Bản lần đầu tiên tham gia cuộc tập trận chung trên biển Hoàng Hải giữa Mỹ
và Hàn Quốc với tư cách quan sát viên. Tháng 1/2011, Nhật Bản và Hàn Quốc tổ
chức hội nghị Bộ trưởng quốc phòng, hai bên đã đàm phán về việc cung cấp hậu
cần, đồng thời đồng ý ký “Hiệp định an ninh chung về thông tin quân sự”.
Thứ hai, Mỹ sử dụng
vấn đề tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các quốc gia ở Biển Đông làm chỗ
dựa chiến lược để quay trở lại Đông Nam Á. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, xuất
phát từ yêu cầu chiến lược kiềm chế ngăn chặn Liên Xô, Mỹ đã thực hiện chính
sách không can thiệp vào vấn đề Nam Hải (Biển Đông), được gọi là “chủ nghĩa
trung lập thực sự”. Tuy nhiên, sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là
vào thập niên 90 của thế kỷ XX, do Philíppin và Trung Quốc xảy ra xung đột
trong sự kiện đảo Mỹ Tế (Đảo Vành Khăn), Chính quyền Bill Clintơn đã quan tâm
hơn vấn đề Nam Hải, kêu gọi giải quyết tranh chấp một cách hoà bình. Trợ lý
Ngoại trưởng Mỹ Joseph Nye cho rằng nội dung quan trọng trong chính sách Nam
Hải của Mỹ là “chủ nghĩa trung lập tích cực”. Tuy nhiên, kể từ năm 2010 đến
nay, hàng loạt quan chức của Mỹ đã cho biết chính sách của nước này về Nam Hải
đã chuyển sang phương hướng “can dự tích cực”. Trong thời gian diễn ra hội nghị
ngoại trưởng ASEAN lần thứ 17, Mỹ đã đưa ra vấn đề Nam Hải, lần đầu tiên công khai
khẳng định vấn đề Nam Hải liên quan đến “lợi ích quốc gia” của Mỹ. Ngoại trưởng
Mỹ Hilary Clinton nói: “Hoa Kỳ, như tất cả các nước khác, có lợi ích quốc gia
trong việc tự do hàng hải, hàng không trên vùng biển chung của châu Á. Chúng
tôi chia sẻ những lợi ích không chỉ với các thành viên ASEAN hoặc những người
tham dự Diễn đàn Khu vực ASEAN, mà còn với các quốc gia ven biển khác và cộng
đồng quốc tế”. Tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (10+8) lần đầu
tiên, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khẳng định lại Mỹ có lợi ích quốc gia trong tự do
hàng hải, trong phát triển kinh tế và thương mại không thể ngăn cấm. Mỹ tuân
thủ nguyên tắc cơ bản là mở cửa vùng biển vùng trời trên vùng biển quốc tế và
trên khoảng không vũ trụ. Mỹ còn công khai khởi xướng giải quyết vấn đề Nam Hải
bằng phương thức đa phương, thậm chí muốn trực tiếp can dự vào tiến trình đàm
phán đa phương. Đại sứ Mỹ ở Philíppin Thomas Harriol bày tỏ muốn giúp ASEAN
soạn thảo “Nguyên tắc ứng xử” mang tính chất ràng buộc pháp lý. Gates còn nói
Mỹ hoan nghênh thông qua ngoại giao đa phương để giải quyết tranh chấp lãnh thổ
ở Nam Hải, đồng thời, giúp đỡ khởi xướng tiến trình này.
Thứ ba, Mỹ tham gia
cơ chế đa phương khu vực một cách toàn diện, có ý đồ xây dựng tiến trình hợp
tác khu vực do Mỹ giữ vai trò chủ đạo. Chính quyền Obama thực hiện “nguyên tắc
tại chỗ” đối với cơ chế đa phương mang tính khu vực châu Á. Sau khi chính thức gia
nhập “Hiệp ước hữu nghị Đông Nam Á” vào năm 2009, Mỹ đã tích cực tìm cách trở
thành thành viên lâu dài của Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Tại Hội nghị không
chính thức Ngoại trưởng của Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tổ chức tại Hà Nội, Mỹ
đã hoàn thành bước đi chiến lược quan trọng. Họ đã coi ASEAN là chỗ dựa của cơ
cấu mang tính khu vực đang được hình thành. Thông qua hợp tác “thiết thực” với
ASEAN, Mỹ phát huy “vai trò lãnh đạo” khu vực Đông Nam Á. Năm 2010, Mỹ và ASEAN
đã tổ chức hội nghị cấp cao song phương lần thứ hai. Hai bên nhất trí tăng
cường hợp tác rỗng rãi trong các lĩnh vực như thương mại, kinh tế, biến đổi khí
hậu, an ninh. Hai bên đã chính thức khởi động “kế hoạch đối tác” giữa Uỷ ban Tiểu
vùng sông Mê Công và Uỷ ban sông Misisipi, chuẩn bị thông qua phương thức viện
trợ “đa phương” để tăng cường quan hệ với các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Công.
Hoạt động chiến lược
lớn nhất của Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương là tham gia đàm phán “Hiệp định đối
tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương” (TPP), thúc đẩy mở rộng TPP. Kể
từ khi chính thức tham gia đàm phán TPP vào tháng 3/2010, Mỹ đã tiến hành 4 vòng
đàm phán với bốn nước khởi xướng TPP (Chilê, Niu Dilân, Xinhgapo Brunây) cùng
Pêru,Việt Nam, Ôxtrâylia, Malaixia. Theo lộ trình đã vạch sẵn, Mỹ sẽ thúc đẩy
TPP đi đến một hiệp định vào cuối năm 2011 vào trước dịp Hội nghị Thượng đỉnh
Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) diễn ra tại Haoai, để
TPP tăng lên 9 thành viên. Mục tiêu tiếp theo của Mỹ là kết nạp thêm Hàn Quốc,
Nhật Bản, Inđônêxia, đến trước năm 2015 sẽ biến TPP thành tổ chức “Hiệp mậu
dịch tự do xuyên Thái Bình Dương”. Obama nói: “Mỹ sẽ tiếp xúc với các đối tác
TPP, nhằm xây dựng một hiệp định thương mại khu vực vừa có thể nạp nhiều thành viên,
vừa có tiêu chí cao phù hợp với thế kỷ XXI”.
Thứ tư, Mỹ tăng cường
sự có mặt về quân sự và bố trí lực lượng phía trước ở khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương. Từ năm 2010 đến nay, các cuộc tập trận của quân đội Mỹ ở khu vực
này liên tục gia tăng với quy mô lớn hơn. Vào nửa cuối năm 2010, Mỹ và đồng
minh ở Châu Á – Thái Bình Dương đã tổ chức hơn 20 cuộc tập trận. Để ứng phó với
sự kiện tàu Choenan, Mỹ và Hàn Quốc đã tổ chức một cuộc tập trận với quy mô
chưa từng có trên Biển Nhật Bản, lực lượng tham gia gồm hơn 200 máy bay chiến
đấu trong đó có máy bay chiến đấu “Đại bàng” F22 và hơn 8000 binh lính để
phô trương sức mạnh. Sau sự kiện đấu pháo ở đảo Yeonpyeong, Mỹ còn điều động
tàu sân bay tham gia tập trận trên biển Hoàng Hải, đưa cả một phần biển Trung
Quốc vào khu vực tác chiến của Mỹ. Mỹ và Nhật Bản cũng đã tổ chức hai cuộc tập
trận chung với quy mô lớn nhất trên vùng biển đảo Okinawa. Cuộc tập trận này có
sự tham gia của hơn 4 vạn binh sĩ cùng tàu sân bay “George Washington” và máy
bay ném bom B-52. Động thái mới đáng chú ý là quân đội Mỹ đã tổ chức tập trận “Lá
chắn dũng cảm” ở gần Đảo Guam. Khu vực giả
tưởng của Mỹ không còn là eo biển Đài Loan mà là Nam Hải (Biển Đông), căn cứ
quân sự của Mỹ trên đất Nhật Bản đã cử rất nhiều binh sĩ tham gia cuộc tập trận
này.
Mỹ đã tăng cường rõ
rệt hợp tác quân sự với các nước Đông Nam Á, trong đó, một số chương trình hợp
tác khu vực mang tính đột phá. Chẳng hạn, Tàu sân bay “George Washington” chạy
bằng năng lượng hạt nhân đến thăm Việt Nam,
lần đầu tiên tiến hành tập trận tìm kiếm cứu nạn ở Nam Hải với Việt Nam. Mỹ cam kết
cung cấp tên lửa hành trình chính xác trị giá 184 triệu USD cho Philíppin. Đây
là lần đầu tiên Philíppin sở hữu loại vũ khí này. Mỹ và Inđônêxia đã ký “Hiệp
định khung về hợp tác phòng thủ”. Hiệp định đó đã khôi phục quan hệ hợp tác bị
gián đoạn trong 12 năm. Ngoài ra, nhân dịp này, Mỹ còn nghiên cứu khả năng
thiết lập căn cứ quân sự xung quanh Nam Hải.
Ngoài việc tìm kiếm
hợp tác quân sự, Mỹ còn đầu tư tiền của để nâng cấp căn cứ quân sự của Mỹ ở đảo
Guam, biến hòn đảo này trở thành “căn cứ quân
sự đa năng” nhất thể hoá chức năng tiếp tế hậu cần và chức năng chỉ huy. Theo
Nhật báo “The Daily Telegraph” của Anh, Mỹ đã bỏ ra 12,6 tỷ USD để xây dựng tại
công trình Guam công trình căn cứ quân sự có cảng neo đậu tàu sân bay chạy bằng
năng lượng hạt nhân, hệ thống phòng thủ tên lửa và căn cứ tập trận bắn đạn
thật. Đây là dự án căn cứ quân sự có quy mô lớn nhất, chi phí tốn kém nhất được
Mỹ xúc tiến ở phía Tây Châu Á – Thái Bình Dương kể từ sau Chiến tranh thế giới
lần thứ hai. Để tăng cường khả năng kiểm soát trên không tại khu vực này, không
quân Mỹ bắt đầu triển khai máy bay trinh sát không người lái “Đại bàng toàn
cầu” ở Guam vào năm 2010. Đến nửa đầu năm
2011, 3 máy bay trinh sát không người lái đã đến trực chiến tại khu vực phía
Tây Thái Bình Dương.
(II)
Việc Mỹ tăng cường
triển khai chiến lược ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có mục đích chủ yếu là
để đáp ứng vị thế chiến lược toàn cầu không ngừng tăng lên của khu vực châu Á –
Thái Bình Dương, vai trò của khu vực này ngày càng quan trọng đối với lợi ích của
Mỹ, đồng thời thách thức đối với Mỹ cũng gia tăng.
Trước hết, từ khi
bước vào thế kỷ XXI đến nay, kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương phát
triển nhanh chóng, trọng tâm của nền kinh tế thế giới bắt đầu chuyển dịch từ
khu vực Đại Tây Dương sang Châu Á – Thái Bình Dương. Đây là một trong những khu
vực kinh tế phát triển năng động nhất, có thị trường mới nổi lớn nhất thế giới.
Hiện nay, xuất khẩu ở khu vực này chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu,
dự trữ ngoại hối chiếm 2/3, quy mô kinh tế chiếm hơn một nửa. Theo dự báo của
Công ty Goldman Sachs, trọng tâm kinh tế toàn thế giới có thể nhanh chóng
chuyển dịch sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
của Trung Quốc sẽ vượt Mỹ vào năm 2027. Đến năm 2050, 4 quốc gia châu Á, 8 quốc
gia ven bờ Thái Bình Dương sẽ nằm trong danh sách 10 nền kinh tế hàng đầu thế
giới. Nền kinh tế Đông Á lúc đó sẽ vượt xa Bắc Mỹ và Châu Âu.
Khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương ngày càng quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trung Quốc và
Nhật Bản lần lượt là chủ nợ lớn nhất và thứ hai của Mỹ. Mọi hoạt động mua bán trái
phiếu Mỹ của hai nước này đều tác động với hiệu quả thực tế đối với chính sách
kinh tế của Mỹ. Ba nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc nằm trong số 7 đối tác
thương mại hàng đầu của Mỹ. Mỹ đã ký hiệp định tự do thương mại với Xinhgapo,
Ôxtrâylia, ngoài ra còn đang đàm phán hiệp định này với Malaixia. Hillary tuyên
bố: “Về kinh tế và chiến lược, Mỹ có lợi ích quan trọng trong việc lãnh đạo
Châu Á”; “Về kinh tế, Mỹ không thể tách rời khu vực này. Kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ của các công ty Mỹ sang các nước châu Á – Thái Bình Dương
lên tới 320 tỷ USD, đồng thời tạo cơ hội việc làm lương cao cho hàng triệu lao
động. Ngoài ra, còn có hàng trăm ngàn quân nhân và phụ nữ phục vụ trong lĩnh vực
an ninh tại khu vực này…”.
Thứ hai, Mỹ lo lắng
chủ nghĩa khu vực ngày càng gia tăng ở châu Á sẽ gây nguy hiểm cho lợi ích của
Mỹ tại khu vực này. Những năm gần đây, các cơ chế hợp tác châu Á phát triển
mạnh mẽ, mối liên hệ nội bộ khu vực ngày càng chặt chẽ. ASEAN “10+1”, “10+3”, Hội
nghị Thượng đỉnh Đông Á, Hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mê Công… đã thể hiện
sức sống mạnh mẽ trong khu vực. Ngày 1/1/2010, khu vực mậu dịch tự do ASEAN –
Ôxtrâylia – Niu Dilân cũng chính thức có hiệu lực. ASEAN còn lần lượt xây dựng
khu vực mậu dịch tự do với Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ. Ba nước Trung Quốc,
Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đã xây dựng cơ chế Hội nghị lãnh đạo định kỳ và cơ
chế hội đàm cấp ngoại trưởng nằm ngoài cơ chế “10+3”. Ba nước có kế hoạch thành
lập Ban thư ký hợp tác trong năm 2011. Chính phủ Hatoyama của Nhật Bản đã đưa
ra sáng kiến xây dựng “Cộng đồng Đông Á” không có sự tham gia của Mỹ. Cơ chế
hợp tác đa phương khu vực không ngừng gia tăng làm cho ý thức cộng đồng của cả
khu vực cũng tăng lên. Theo tờ “Washington Quarterly” của Mỹ, Châu Á đang hình
thành mô hình phát triển kinh tế song song kiểu “mành trúc”, các công ty châu Á
ngày càng có xu hướng xây dựng hệ thống sản xuất phục vụ chính khu vực của
mình, đồng thời liên kết kinh tế đã mở đầu cho việc xây dựng sự đồng thuận văn
hoá Đông Á.
Trái với chủ nghĩa
khu vực ngày càng phát triển ở châu Á, từ khi bước vào thế kỷ XXI đến nay, Mỹ
lại thiếu coi trọng và bàng quan với cơ chế đa phương hình thành trong nội bộ
Đông Á do phải tập trung vào cuộc chiến chống khủng bố và hai cuộc chiến tranh
Irắc và Ápganixtan. Mỹ lo ngại nếu để mặc cho nội bộ châu Á phát triển với sự
lãnh đạo của nước lớn châu Á thì họ sẽ bị loại ra khỏi các tổ chức kinh tế và
an ninh khu vực quan trọng này, từ đó khả năng can dự của Mỹ vào châu Á sẽ yếu
hẳn; Mỹ cần ngăn ngừa việc xuất hiện trên Thái Bình Dương giới tuyến chia cắt
Mỹ với Đông Á. Do đó, họ phải tham gia vào các cơ chế có thể định hướng tương
lai của châu Á, xây dựng khuôn khổ hợp tác khu vực phục vụ lợi ích của Mỹ.
Với mục đích đó,
chính quyền Obama đã cố gắng nhấn mạnh ý tưởng Mỹ là “quốc gia ở Châu Á – Thái
Bình Dương” và là “nước lớn thường trú ở châu Á”, mong muốn tham gia bàn bạc
những công việc liên quan đến tương lai của khu vực, can dự toàn diện vào các
cơ chế đa phương của Đông Á. Đồng thời, Mỹ còn xây dựng cơ chế mới bên ngoài
khu vực châu Á, mở rộng thành viên TPP trong khuôn khổ APEC, lấy TPP làm vũ đài
để đối chọi lại cơ chế nội bộ châu Á. Do đó, Mỹ không chỉ muốn APEC có vị trí
liên kết lãnh đạo châu Á, mà còn muốn xoá bỏ ảnh hưởng bất lợi của các khu vực
mậu dịch tự do châu Á khác đối với thương mại Mỹ. Ngoài ra, Mỹ còn có ý đồ thâu
tóm các tổ chức mang tính khu vực ở châu Á. Uỷ ban quan hệ đối ngoại Mỹ đã kiến
nghị Chính phủ Obama thúc đẩy tổ chức lại APEC và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.
Mỹ muốn Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) trở thành Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng
các nước Châu Á, APEC trở thành Hội nghị Bộ trưởng Thương mại Châu Á – Thái
Bình Dương. Từ đó, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sẽ hình thành khuôn khổ một
Hội nghị thượng đỉnh cộng thêm hai diễn đàn chức năng, Mỹ sẽ phát huy ảnh hưởng
hiệu quả hơn trong tiến trình liên kết châu Á.
Ba là, Mỹ không lường
hết được tốc độ trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc, nên lo ngại, hoài nghi
Trung Quốc nhiều hơn. Đặc điểm nổi bật nhất của sự chuyển trọng tâm chiến lược
toàn cầu của Mỹ sang hướng Đông là sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc. Năm
2010, Trung Quốc vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế
giới sau Mỹ, vượt qua Đức trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, công
nghiệp chế tạo cũng vượt lên trên Mỹ, đứng đầu thế giới. Kim ngạch thương mại
giữa Trung Quốc với Hàn Quốc và Trung Quốc với Nhật Bản đã lớn hơn giữa Mỹ với
hai nước này. Điều đó đã thể hiện rõ nét “quyền lực châu Á đang nhanh chóng
chuyển dịch về phía Trung Quốc”, tâm lý lo ngại của Mỹ lớn chưa từng có.
“Thuyết về Trung Quốc vượt Mỹ”, “Thuyết Mỹ suy thoái” đã xuất hiện trong lòng
nước Mỹ. Những luận thuyết này cho rằng Trung Quốc sẽ vượt Mỹ trong khoảng 20,
30 năm nữa, thậm chí sớm hơn nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng nhanh như
vậy. Trong “Thông điệp liên bang” năm 2011, Tổng thống Mỹ Obama đã 10 lần nhắc
đến Trung Quốc, dẫn ra hàng loạt thành tựu Trung Quốc vượt trước Mỹ trong các
lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giáo dục… Đồng thời, ông còn lấy việc Liên Xô lần
đầu tiên phóng vệ tinh lên vũ trụ vào năm 1657 làm ví dụ, nói rằng Mỹ đang đứng
trước “thời khắc vũ trụ mới”, người dân trong nước phải có tâm lý bị đe doạ,
nếu không sẽ gặp nguy hiểm tụt hậu trong cạnh tranh sau này. Điều khiến Mỹ bất
an là Trung Quốc đã thành công mà không hề theo mô hình chính trị, tôn giáo và
luật lệ tự do kinh tế của Mỹ. Mô hình phát triển của Trung Quốc được các nước
đang phát triển ưa thích, tạo ra thách thức đối với mô hình của Mỹ. Ngoài ra,
do kinh tế phát triển nhanh chóng, Trung Quốc ngày càng có khả năng tăng cường
xây dựng trật tự khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là tăng cường ảnh
hưởng ở Đông Nam Á trong những năm gần đây, khiến Mỹ cảm nhận được sức ép cạnh
tranh to lớn.
Đồng thời, Mỹ hoài
nghi về hướng đi của Trung Quốc sau khi trỗi dậy, nghi ngờ sự “thiếu minh bạch”
về phát triển quân sự của Trung Quốc. Mỹ đặc biệt quan tâm đến “những hoạt động
nhộn nhịp” của hải quân Trung Quốc ở Biển Hoa Đông, biển Nam Hải. Họ nhận định
đây là thách thức trực tiếp đối với lợi ích của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Tạp
chí “Thời đại” của Mỹ viết: Sự trỗi dậy của hải quân Trung Quốc có thể so sánh
với Hải quân Hoàng gia Anh thời kỳ Nữ Hoàng Victoria và Hải quân Mỹ thời kỳ
Chiến tranh Lạnh, “đám mây đen hoài nghi bao trùm báo trước điều gì sẽ xảy ra”.
Hiện tại sức mạnh hải quân của Trung Quốc vẫn chỉ ở tầm khu vực, đến một thời
điểm nào đó sẽ thay đổi hẳn tình thế. Ngoài ra, Mỹ càng nhạy cảm hơn trước ý
chí và việc làm bảo vệ lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, họ phán đoán nội hàm
chiến lược trong “luận điệu mới” của Trung Quốc, lo lắng “việc định nghĩa lại”
những vấn đề vốn có sẽ loại Mỹ ra khỏi châu Á.
Trước sức ép từ sự
trỗi dậy của Trung Quốc, Mỹ đã thực hiện sách lược “cạnh tranh” và “hai mặt”:
Một mặt, Mỹ cạnh tranh với Trung Quốc về ngoại giao ở khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương, lấy lại những ảnh hưởng ngày càng mở rộng của Trung Quốc ở khu vực
này. Họ tiếp tục lợi dụng khoét sâu mâu thuẫn giữa các quốc gia châu Á với
Trung Quốc để đánh vào điểm yếu trong quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia
xung quanh, lôi kéo những nước muốn cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ, thắt chặt
và củng cố quan hệ đồng minh quân sự trong khu vực. Mặt khác, Mỹ duy trì chiến
lược “kiên nhẫn”, thông qua tham gia và xây dựng cơ chế đa phương ngày càng mở
rộng, tìm kiếm hợp tác với Trung Quốc, nhằm tăng cường “lòng tin” của các nước
trong khu vực và các nước đồng minh đối với Mỹ.
Cuối cùng, vấn đề
điểm nóng khu vực và những nhân tố bất ổn khác ở Châu Á – Thái Bình Dương, trực
tiếp liên quan đến lợi ích an ninh của Mỹ. Tại Đông Nam Á, vấn đề hạt nhân của Triều
Tiên là nhân tố khó lường nhất ảnh hưởng đến ổn định khu vực. Nếu vấn đề này
không được xử lý tốt, không những có thể ảnh hưởng đến quan hệ giữa Mỹ và các
nước đồng minh, mà còn có thể kích động Nhật Bản và Hàn Quốc quyết tâm phát
triển vũ khí hạt nhân. Hàn Quốc và Nhật Bản đã có biểu hiện khuynh hướng xa rời
Mỹ, vấn đề chuyển giao quyền chỉ huy của quân đội Mỹ tại Hàn Quốc và vấn đề di
chuyển căn cứ quân sự Futenma ở Okinawa chính
là những bằng chứng về khuynh hướng rõ rệt đó. Ngoài ra, Mỹ còn lo ngại về sự
phát triển mạnh mẽ của quan hệ kinh tế thương mại, văn hoá giữa Trung Quốc và
Hàn Quốc, lo ngại vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên ảnh hưởng tiêu cực
đến cả khu vực, có thể tác động xấu đến sự kiểm soát của Mỹ đối với khu vực
châu Á- Thái Bình Dương. Do đó, Mỹ luôn chờ thời cơ để tăng cường kiểm soát
quan hệ đồng minh Mỹ – Hàn, Mỹ – Nhật.
Tại khu vực Đông Nam
Á, các thế lực khủng bố Hồi giáo ở Inđônêxia và Philíppin đã ảnh hưởng trực
tiếp đến sự ổn định của chính quyền những quốc gia trong khu vực là đồng minh
và có quan hệ thân thiện với Mỹ. Chính quyền quân sự Mianma luôn hoàn toàn bác
bỏ sự chỉ đạo của Mỹ; ngoại giao dân chủ, nhân quyền của Mỹ gặp trắc trở ở
Mianma. Nhiều năm nay, quan hệ Mỹ – Mianma luôn gây cản trở quan hệ hợp tác của
Mỹ với ASEAN. Ngoài ra, khu vực này còn có các vấn đề an ninh khác như cướp
biển, tranh chấp đảo, bệnh truyền nhiễm xuyên quốc gia… Hillary nói: “Châu Á
không những là nơi trỗi dậy của nhiều quốc gia, mà còn là mảnh đất của những
chính quyền biệt lập với cộng đồng quốc tế; không những tồn tại thách thức lâu
dài mà còn đối mặt với mối đe doạ chưa từng có”. Mỹ coi Diễn đàn ASEAN (ARF) là
sân chơi mang lại hiệu quả để họ can dự vào những nhân tố bất ổn trên. Do đó,
họ đã tích cực lợi dụng những cơ chế đối thoại đa phương chính thức để đưa
ASEAN vào quỹ đạo chiến lược của Mỹ.
(III)
Mỹ tăng cường điều
chỉnh bố trí chiến lược ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, phân phối lại nguồn
lực ngoại giao và quân sự của mình. Điều này sẽ khó tránh khỏi gây ảnh hưởng
lớn đối với tình hình an ninh và cục diện ngoại giao trên toàn bộ khu vực.
Thứ nhất, Mỹ bắt đầu
từ vấn đề điểm nóng, định hướng khủng hoảng, làm cho tình hình an ninh khu vực
phát triển theo xu thế phức tạp hơn. Mỹ tăng cường quan hệ với đồng minh ở Đông
Bắc Á, trực tiếp ảnh hưởng đến đánh giá của các nước có liên quan về tình hình
an ninh và việc lựa chọn biện pháp đối đầu. Thái độ củ Hàn Quốc trong vấn đề
quan hệ Nam Bắc có xu hướng cứng rắn hơn, liên tục tổ chức tập trận chung với
Mỹ ở khu vực nhạy cảm. Tuy Triều Tiên không trực tiếp phản ứng quân sự đối với
hoạt động tập trận, nhưng tuyên bố họ có cơ sở tinh chế uranium, khẳng định
đang tích cực xây dựng lò phản ứng nước nhẹ, nhà máy làm giàu uranium hiện đại
được trang bị hàng nghìn máy ly tâm đang nhanh chóng được vận hành. Hàn Quốc và
Mỹ liên tục duy trì sức ép quân sự đối với Triều Tiên, không những không làm
cho tình hình khu vực này ổn định trở lại mà còn làm cho việc xử lý vấn đề hạt
nhân trên bán đảo Triều Tiên trở nên khó khăn hơn.
Nhật Bản dựa vào sức
mạnh của Mỹ nên có thái độ cứng rắn với Trung Quốc trong vấn đề va chạm tàu ở
đảo Điếu Ngư, có ý đồ sử dụng luật pháp trong nước đê lên tiếng mạnh mẽ về chủ
quyền. Mỹ lại tỏ rõ lập trường “đảo Điếu Ngư nằm trong phạm vi Hiệp ước phòng thủ
an ninh Mỹ – Nhật, đồng thời tổ chức tập trận chung với Nhật Bản. Phe đối lập
cứng rắn ở Nhật Bản đã ra sức thúc đẩy nới lỏng hạn chế về chính sách quốc
phòng an ninh. Đề cương kế hoạch phòng vệ mới trong văn kiện của Đảng Dân chủ
sẽ sửa đổi khái niệm “lực lượng phòng vệ cơ sở” thành “lực lượng răn đe tình
thế”. sửa lại ba nguyên tắc về xuất khẩu vũ khí, tổ chức hội nghị bảo đảm an
ninh quốc gia, tăng cường triển khai lực lượng vũ trang.
Những động thái khác
thường trong chính sách an ninh của ba nước Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc đã gây ra
sự bất an cho các nước lớn khác. Đúng vào lúc diễn ra cuộc tập trận chung “Vành
đai Thái Bình Dương” do Mỹ chỉ đạo, Nga đã triển khai cuộc tập trận “Đông Dương
– 2010” tại vùng Viễn Đông và Tây Xibêri với quy mô lớn nhất kể từ khi Liên Xô
tan rã. Tổng thống Nga Medvedev đặt chana lên quần đảo Sakhalin,
Bộ Quốc phòng Nga lập tức tuyên bố sẽ tăng cường triển khai phòng thủ ở khu vực
này. Nhân dịp kỷ niệm 65 năm sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai,
các nhà lãnh đạo của Trung Quốc và Nga đã ra tuyên bố chung, nhấn mạnh “nội
dung quan trọng hợp tác giữa hai nước là sự ủng hộ lẫn nhau vấn đề lợi ích cốt
lõi của mỗi bên liên quan đến chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia”. Hai nước kiên quyết lên án âm mưu thay đổi lịch sử Chiến tranh thế giới
thứ hai, tô hồng các phần tử theo chủ nghĩa phát xít, bôi đen những người giải
phóng”.
Thứ hai, Mỹ tác động
tiêu cực vào tiến trình hợp tác khu vực Đông Á. Tại Đông Bắc Á, Mỹ tăng cường
quan hệ với các đồng minh thời kỳ Chiến tranh Lạnh, làm gia tăng khoảng cách
quan hệ giữa Trung Quốc với Nhật Bản và Hàn Quốc, tiến trình hợp tác giữa ba nước
chậm lại. Nhân dịp kỷ niêm 100 năm “Ngày liên kết Nhật Bản – Hàn Quốc”, Thủ
tướng Nhật Bản Naoto Kan nói “Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước láng giềng quan
trọng nhất, mật thiết nhất trong thế kỷ XXI; dân chủ, tự do và kinh tế thị
trường là quan niệm giá trị chung của hai nước”. Phát biểu đó mang ý nghĩa đề
cao sắc thái ý thức hệ, vì thế nó gây mối hiềm nghi, đi ngược lại tinh thần hợp
tác khu vực đã được cam kết tại Hội nghị cấp cao ba nước.
Ngoài cơ chế hợp tác
khu vực Đông Á, Mỹ còn xây dựng Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái
Bình Dương (TPP), kìm hãm sự phát triển liên kết Đông Á. Hiện nay, liên kết khu
vực Đông Á chủ yếu là lấy cơ chế hợp tác “10+3” làm nền tảng. Việc Mỹ kết nạp
một số nước Đông Á vào quỹ đạo đàm phán TPP, chắc chắn sẽ tác động xấu đến tiên
trình hợp tác khu vực vốn có ở Đông Á. Đồng thời với việc làm suy yếu chủ nghĩa
khu vực Đông Á, Mỹ đã tăng cường xây dựng lại trật tự khu vực. Khi nhắc đến
tương lại phát triển của TPP, Trợ lý Đại diện thương mại Mỹ Julia Muir tuyên bố
không úp mở rằng: “Mục đích của Mỹ là làm thế nào để đạt được hiệp định phù hợp
với tất cả các nước ở Châu Á – Thái Bình Dương. Mọi quốc gia trước khi gia nhập
đều đáp ứng được tiêu chuẩn xây dựng TPP”.
Thứ ba, sức ép ngoại
giao và an ninh với Trung Quốc gia tăng. Việc làm của Mỹ tích cực lãnh đạo và
tham gia vào các giải pháp đối trọng với Trung Quốc, sẽ phá hoại thế cân bằng
hiện nay ở Đông Á. Mỹ tăng cường hợp tác quân sự với “một nhóm nhỏ”. Điều này có
nghĩa là Mỹ gây trở ngại mang tính cơ cấu đối với việc hợp tác an ninh của các
nước Châu Á. Quan hệ đồng minh Mỹ – Hàn, Mỹ – Nhật đi vào chiều sâu, khiến Hàn
Quốc và Nhật Bản nhân cơ hội điều chỉnh xây dựng quân đội, mua sắm thêm vũ khí.
Hơn nữa, hậu quả trực tiếp của sự phối hợp quân sự giữa ba nước này là tăng
cường hơn nữa mô hình an ninh “Thời kỳ Chiến tranh Lạnh” ở Đông Bắc Á, làm cho
Trung Quốc phải đối mặt với môi trường phức tạp hơn khi thúc đẩy đối thoại và
hợp tác khu vực.
Mỹ dấy lên vấn đề Nam
Hải (Biển Đông), coi việc Trung Quốc trỗi dậy đồng nghĩa với “mất an ninh”, “vô
trách nhiệm”, “phô trương vũ lực”, “mạnh bắt nạt yếu”, làm sứt mẻ nghiêm trọng hình
ảnh Trung Quốc. Đồng thời, thông qua chia rẽ quan hệ Trung Quốc với các nước
ven biển Nam Hải, Mỹ xúi giục các nước này lựa chọn hợp tác an ninh với Mỹ.
Quân đội Mỹ còn nhân cơ hội hối thúc chính phủ và quốc hội đầu tư cho hướng tây
Thái Bình Dương, đặc biệt là hoạt động ở Nam Hải. Họ tăng cường trinh sát trên
biển trên không thuộc khu vực đặc quyền kinh tế của Trung Quốc và tập trận
chung với các nước xung quanh Trung Quốc.
Đi đôi với không
ngừng hoàn thiện căn cứ quân sự tại Guam và triển khai máy bay chiến đấu và tàu
ngầm tiên tiến tại đây, đảo Guam đã dần dần trở thành “căn cứ địa chiến đấu”
bậc nhất ở khu vực Tây Thái Bình Dương. Việc Mỹ tăng cường vai trò căn cứ chiến
lược của đảo Guam đã nâng caao đáng kể khả năng giám sát và can dự của họ vào
tình hình trên biển Đông Hải (Biển Hoa Đông), Nam Hải (Biển Đông). Theo báo cáo
của cơ quan nghiên cứu thuốc Quốc hội Mỹ, lực lượng không quân Mỹ có thể cất
cánh từ đảo Guam để tấn công quân sự khu vực Châu Á – Thái Bình Dương chỉ mất
2-5 giờ. Chỉ cần hai ngày, lực lượng tàu chiến của quân đội Mỹ xuất phát từ đảo
Guam có thể đến làm nhiệm vụ ở vùng ven biển
Châu Á chỉ cần 2 ngày, nhanh hơn nhiều so với từ Haoai (4 ngày rưỡi).
(IV)
Năm 2011, việc triển
khai bố trí chiến lược của Mỹ tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục
được tăng cường, có mấy sự kiện mang tính cột mốc đáng chú ý. Một là Hội nghị thượng
đỉnh phi chính thức APEC được tổ chức lần đầu tại Haoai. Điều này chứng tỏ Mỹ
muốn đạt được nhận thức chung, nhân cơ hội này đưa ra chủ đề TPP, nâng cấp quan
hệ thương mại với các nước trong khu vực, xây dựng hình tượng lãnh đạo của
“quốc gia Thái Bình Dương”. Hillary nói: “Năm 2011 sẽ là năm then chốt của vấn
đề thương mại, bắt đầu từ Hiệp định thương mại tự do Mỹ – Hàn Quốc, tiếp theo
là đàm phán hiệp định TPP, sau đó là Hội nghị Thượng đỉnh G20 chung sức đi đến
cân bằng trở lại về kinh tế, cuối cùng là Hội nghị thượng đỉnh APEC ở Haoai hội
tụ thành công. Chúng ta sẽ gặp cơ hội ngàn năm có một để tạo ra sự tăng trưởng
mở rộng, bền vững, cân bằng hơn ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, chúng ta
nhất định sẽ nắm lấy cơ hội này”. Để chuẩn bị tốt cho APEC, Mỹ sẽ đẩy nhanh đàm
phán TPP, dự kiến TPP sẽ thực hiện kế hoạch kết nạp thêm thành viên vào giai
đoạn một.
Hai là việc đàm phán
Hiệp định tự do thương mại giữa Mỹ và Hàn Quốc bước vào giai đoạn cơ quan nhà
nước phê chuẩn. Nếu Hiệp định thương mại giữa Mỹ và Hàn Quốc được quốc hội
thông qua sẽ trở thành Hiệp định thương mại tự do lớn thứ hai tiếp sau Hiệp định
thương mại tự do Bắc Mỹ được ký kết năm 1994 giữa Mỹ với đối tác thương mại lớn
nhất là Canada
và Mêhicô. Một trong những nội dung của Hiệp định này là Mỹ sẽ mở cửa thị
trường sản xuất ôtô cho Hàn Quốc, tạo ra ít nhất 70 nghìn việc làm ở Mỹ. Sau
khi ký hiệp định này, Mỹ sẽ thúc đẩy Hàn Quốc sớm gia nhập TPP.
Ba là Mỹ và Nhật Bản
sẽ tổ chức cuộc gặp cấp cao. Mỹ sẽ tận dụng cơ hội Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan
thăm chính thức Mỹ để ra Tuyên bố chung trong đó có nội dung “Lộ trình đồng
minh Nhật – Mỹ hướng tới Thế kỷ XXI”, xác nhận lại tầm quan trọng của quan hệ đồng
minh Mỹ – Nhật đối với tương lai châu Á. Phía Nhật Bản đã tỏ ý muốn gia nhập
TPP. Phía Mỹ mong muốn đàm phán với Nhật Bản về vấn đề “chiến lược dân sinh
toàn cầu”, giúp Nhật Bản phát huy vai trò tích cực hơn trong các hoạt động gìn
giữ hoà bình của Liên hợp quốc, viện trợ phát triển của chính phủ, viện trợ
nhân đạo và cức trợ thảm hoạ trên quy mô toàn cầu…
Bốn là Tổng thống Mỹ
sẽ lần đầu tiên tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Điều này có nghĩa là Mỹ
và ASEAN sẽ quy chế hoá các cuộc gặp gỡ cấp cao. Mỹ coi Hội nghị Thượng đỉnh
Đông Á là “Diễn đàn thảo luận các vấn đề chính trị và chiến lược khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương”. Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á sẽ giúp Mỹ xích lại gần hơn các
nước Đông Á. Nếu tổng thống Mỹ mỗi năm dự hội nghị này một lần, thì có nghĩa là
ít nhất mỗi năm một lần đến thăm Đông Nam Á. Mỹ có thể tận dụng thời gian tham
gia hội nghị này để tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ – ASEAN, còn có thể kết hợp
đi thăm các nước chủ nhà đăng cai hội nghị. Theo trình tự, khi Campuchia làm
Chủ tịch ASEAN vào năm 2012, nếu Obama đến dự Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, ông
ta sẽ trở thành tổng thống Mỹ đương nhiệm đầu tiên đến thăm Campuchia, quan hệ
hai nước sẽ có thêm cơ hội phát triển mới. Cũng như vậy, nếu Obama tái đắc cử tổng
thống, ông ta sẽ đến thăm Lào – nước chủ nhà Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á vào
năm 2013 và cũng sẽ trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Lào.
Tuy nhiên, do việc
đảm bảo chuẩn bị cho chuyến thăm nước ngoài của Tổng thống Mỹ khá phức tạp,
cũng như Tổng thống Mỹ chỉ tham dự Hội nghị cấp cao Đông Á trùng hợp thời gian
với hội nghị APEC do ASEAN tổ chức, nên ông ta cũng có thể lựa chọn cứ 2-3 năm một
lần dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.
Những sự kiện mang
tính tiêu chí này có ý nghĩa quan trọng đối với việc Mỹ tăng cường bố trí chiến
lược ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, nhưng mức độ thúc đẩy chiến lược này
như thế nào, các bước đi nhanh đến đâu sẽ có còn chịu ảnh hưởng bởi sự phân
phối nguồn lực chiến lược toàn cầu, sự định vị chiến lược của Mỹ tại khu vực này
và phản ứng của các nước Châu Á – Thái Bình Dương như thế nào.
Trước hết, Mỹ làm thế
nào để phân phối cân bằng nguồn lực chiến lược? Về ý nghĩa địa chính trị, Trung
Đông và Đông Nam Á vẫn là khu vực chiến lược quan trọng hàng đầu trong chiến lược
đối ngoại của Mỹ. Một thời gian tương đối dài từ này về sau, Mỹ sẽ vẫn tập
trung tâm sức chủ yếu vào khu vực này. Hiện nay, vấn đề Irắc vẫn chưa hoàn toàn
được giải quyết, Mỹ vẫn còn 5 vạn quân đóng tại Irắc. Lực lượng Taliban ở
Ápganixtan lúc tiến lúc lui, số lính Mỹ chết và bị thương tiếp tục gia tăng.
Chính quyền Obama vốn định rút quân ra khỏi nước này vào tháng 7/2011, nhưng
lực lượng quân đội Mỹ ở Ápganixtan không những giảm mà còn tăng, đã lên tới 10
vạn người. Mỹ đã tiêu tốn 150 tỷ USD mỗi năm cho hai cuộc chiến ở Irắc và
Ápganixtan. Số tiền này chiếm 10-15% phần ngân sách bội chi của chính quyền Mỹ.
Để nhanh chóng thoát khỏi tình thế khó khăn bế tắc, Mỹ đang tích cực tìm kiếm
sự giúp đỡ của các nước xung quanh Apganixtan như Nga, Trung Quốc. Ngoài ra, từ
năm 2010 đến nay, tình hình các nước Arập khu vực Tây Á, Bắc Phi liên tục rối
ren. Những nhân tố bất ổn mới đó không những đe doạ an ninh dầu mỏ của Mỹ ở khu
vực này, mà còn ảnh hưởng xấu đến quan hệ Mỹ với các đồng minh truyền thống
trong khu vực, ảnh hưởng đến chiến lược chống khủng bố của Mỹ, dẫn đến một bộ
phận lực lượng quân sự và nguồn lực ngoại giao bị lôi kéo trở lại khu vực này.
Cho dù Mỹ không mong muốn, nhưng về khách quan, khu vực Trung Đông vẫn phân tán
sự chú ý của Mỹ đối với Châu Á – Thái Bình Dương. Nói cách khác, sự xoay xở
chiến lược đã kiềm chế tiến trình chuyển dịch chiến lược sang hướng Đông của
Mỹ. Do đó, mức độ can dự vào điểm nóng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sẽ bị hạn
chê. Khả năng nhiều hơn là Mỹ sẽ điều động lực lượng của đồng minh, vừa đạt
được mục đích đe doạ, lại vừa không mất kiểm soát đối với tình hình khu vực này.
Thứ hai là làm thế
nào để Mỹ nhận thức được vai trò của mình ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương?
Mỹ là một bộ phận không thể tách rời của sự trỗi dậy kinh tế ở châu Á. Tuy
nhiên, sự trỗi dậy về kinh tế và nâng cao vị thế địa chính trị châu Á trước hết
được quyết định bởi bản thân các nước châu Á. Mỹ là một trong những nước quan
trọng hợp tác, đầu tư, cung cấp kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý cho các nước châu
Á, nhưng châu Á cũng có tiềm năng thị trường to lớn và ưu thế phát triển lâu
dàu sau này. Giữa Mỹ và các nước châu Á có quan hệ mang tính phụ thuộc và bổ
sung cho nhau. Nhiều nước châu Á (trong đó có những nước phát triển như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Xinhgapo, Ôxtrâylia và những nền kinh tế mới nổi như Inđônêxia,
Trung Quốc) hoan nghênh Mỹ tiếp tục tham gia các hoạt động kinh tế ở châu Á.
Đồng thời, các nước châu Á cũng ủng hộ mô hình “10+1”, “10+x” của ASEAN, ủng hộ
ASEAN phát huy vai trò trung tâm trong các cơ chế hợp tác khu vực. Tuy
nhiên, Mỹ cao giọng tuyên bố mình “lãnh đạo châu A” đã đi ngược lại tinh thần
cơ bản “hợp tác bình đẳng”, trái với lợi ích của ASEAN, nhất định sẽ khiến các nước
lớn châu Á phải cảnh giác.
Ngoài ra, do sự gia
tăng của vấn đề an ninh phi truyền thống nên thách thức đặt ra trước các nước
Châu Á – Thái Bình Dương cũng rất khác với trước kia. Mỹ không nên chỉ quan tâm
nhiều đến bảo vệ lợi ích quốc gia của mình, mà còn phải chia sẻ khó khăn hoạn nạn
với các nước trong khu vực. Trận động đất mạnh ở Nhật Bản và khủng hoảng hạt
nhân ở đảo Fukushima chứng tỏ, khả năng đoàn kết ứng phó với thảm hoạ của các
quốc gia khu vực này được tăng lên, trong khi dân chúng Nhật Bản lại phê phán
quân đội Mỹ cứu nạn chưa tích cực, tàu sân bay biết tin sự cố điện hạt nhân đã
bỏ đi, đơn phương tuyên bố phạm vi sơ tán… Do trong quá trình cứu nạn và giải
quyết khủng hoảng hạt nhân, giữa Mỹ và Nhật Bản thường xuyên có bất đồng, hơn
nữa, do Nhật Bản có khuynh hướng quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề nội bộ, sự
phối hợp của Nhật Bản đối với chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương có thể giảm
bớt nên Mỹ phải điều chỉnh trọng điểm chương trình ngoại giao Châu Á – Thái
Bình Dương của họ.
Thứ ba là nhìn nhận
như thế nào vấn đề mâu thuẫn giữa các quốc gia trong khu vực. Do nguyên nhân
lịch sử, một bộ phận khu vực Châu Á – Thái Bình Dương còn tồn tại di sản Chiến
tranh Lạnh, một số nước có tranh chấp chủ quyền mang tính nhạy cảm, nhưng xu thế
hợp tác khu vực đang khiến những bất đồng giữa các nước giảm đi, sự rủi ro
tranh chấp an ninh cũng ít hơn, nếu mục đích của Mỹ tham gia vào hợp tác châu Á
– Thái Bình Dương là để thực hiện cùng có lợi, các nước châu Á đương nhiên sẽ
hoan nghênh; nếu ý đồ chiến lược của Mỹ là để ngăn chặn sự hợp tác giữa các
quốc gia trong khu vực, chia rẽ và lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước nhằm bám
giữ trật tự Châu Á – Thái Bình Dương dưới sự thống trị bá quyền của Mỹ thì nhất
định sẽ vấp phải sự phản đối của các nước trong khu vực. Tại hội nghị cấp cao
Mỹ – ASEAN năm 2010, một số nước không muốn thảo luận với Mỹ vấn đề Nam Hải khi
không có sự hiện diện của Trung Quốc, trên thực tế đã phản ánh các nước trong
khu vực không muốn địa bàn này trở thành nơi tranh giành của các nước lớn. Ngoại
trưởng Thái Lan nói: “Nếu ASEAN thảo luận với Mỹ về vấn đề này (vấn đề Nam Hải)
trong khi không có sự tham gia của Trung Quốc thì rất không hợp lý, chúng tôi
không muốn bị coi là có ý đồ kết bè kéo cánh với Mỹ để chống lại Trung Quốc”.
Mặc dù Mỹ rêu rao “Thuyết về mối đe doạ từ Trung Quốc”, nhưng trong bài viết
của minh, Phó thủ tướng Malixia Muhyiddin lại cho rằng: “nên nhìn nhận sức mạnh
quân sự của Trung Quốc một cách tích cực”, “sức mạnh quân sự của Trung Quốc
được tăng cường có thể sẽ khiến Trung Quốc đóng góp được nhiều hơn cho hoà bình
và an ninh quốc tế”. Ông cũng cho rằng mặc dù sức mạnh quân sự của Trung Quốc
được tăng cường, nhưng Trung Quốc vẫn hợp tác với các nước Châu Á – Thái Bình Dương
thông qua quan hệ đa phương hiện có, nên Malaixia không cảm thấy Trung Quốc là
mối đe doạ.
Cuối cùng, làm thế
nào để xử lý mối quan hệ với Trung Quốc? Với vị trí địa lý đặc thù của Trung
Quốc ở Đông Á và sức mạnh của nước này không ngừng tăng lên, việc Mỹ xử lý mối
quan hệ với Trung Quốc như thế nào sẽ quyết định hiệu quả lâu dài chiến lược Châu
Á – Thái Bình Dương của Mỹ. Do sự khác biệt về truyền thống văn hoá và chế độ
xã hội, phương thức xử lý và trọng tâm của hai nước Trung – Mỹ đối với vấn đề
khu vực cũng khác nhau, va chạm là điều khí tránh khỏi. Nhưng bất đồng có thể
giải quyết bằng hiệp thương hoặc lựa chọn phương thức quản lý để duy trì trong
phạm vi có thể kiểm soát được, hoặc tạm thời gác lại, không để ảnh hưởng đên
hợp tác song phương. Nguyên cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Brêdinxki đã chỉ rõ: “Đối
với những bất đồng, hai nước Trung – Mỹ không nên lảng tránh thảo luận thẳng
thắn mà nên xử lý trên tinh thần hiểu biết lẫn nhau; nếu hai nước không thể
củng cố và mở rộng hợp tác thì không những tổn hại đến lợi ích của hai nước mà
còn bất lợi cho cả thế giới”. Nếu trong hoạch định chính sách Châu Á – Thái Bình
Dương, Mỹ quan tâm nhiều hơn đến việc làm thế nào để gây sức ép với Trung Quốc,
ly gián quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh, bao vây và kiềm chế
Trung Quốc, thì sự điều chỉnh chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ nhất
định sẽ bị Trung Quốc phản ứng mạnh mẽ, từ đó sẽ tác động tiêu cực đến toàn bộ
lợi ích của Mỹ. Nếu Mỹ có thái độ hợp tác tích cực, mang tính xây dựng, cùng
Trung Quốc thiết lập quan hệ hợp tác, cùng tìm kiếm con đường giải quyết vấn đề
điểm nóng khu vực, vấn đề phát triển chênh lệch thì sự hợp tác với Trung Quốc
sẽ ngày càng mở rộng, hai nước sẽ cùng các quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương
thực hiện phồn thịnh chung trong mối quan hệ cùng có lợi cùng thắng lợi./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét