Đào Duy Anh
Bài này do học giả Đào Duy Anh viết xong vào
mùa hè 1979, ngay sau khi cuộc tấn công của Trung Quốc vào các tỉnh biên giới
phía Bắc nước ta vừa kết thúc. Trước sự hưng vong của đất nước, nhà sử học già
đã phải nói lên những “lo nghĩ của kẻ thất phu”, là tên đặt lúc đầu cho bài
viết này. Tài liệu này nằm trong di cảo của nhà sử học đã quá cố, chưa được
công bố. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc để tham khảo.
Sau khi thống nhất Trung Quốc,
Tần Thuỷ Hoàng có thể tận dụng nhân lực và tài lực cả “thiên hạ” nghĩ ngay đến
mưu đồ đem lực lượng hùng hậu của dân tộc Trung Hoa là dân tộc đông đúc và văn
minh nhất ở giữa các ngoại tộc mà người Hán cho là dã man hết cả, để bành
trướng thế lực ra bốn phương. Về phía Tây Bắc thì Tần sai tướng quân Mông Điềm
đem 30 vạn binh đánh đuổi bộ tộc Hung Nô gọi chung là rợ Hồ, chiếm cứ các đất ở
phía nam Hoàng Hà (các tỉnh Ninh Hạ, Tuy Viễn đời sau) mở thêm 44 huyện và dời
đến những người phạm tội cho cư trú và khai thác, về phía Đông Nam thì Tần sai
Hiệu uý Đồ Thư đem 50 vạn binh gồm những kẻ lưu vong, những người rể thừa và
những người lái buôn, chia làm 5 đạo đi đánh chiếm các miền Bách Việt, mở đặt
ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng (đất Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu ngày
sau), cho bọn quân lính ấy đóng đồn giữ đất và ở lẫn với người Việt, do đó mà
khai thác miền đất phía Nam Ngũ Lĩnh làm lãnh thổ của Trung Quốc. Nhưng khi
quân Tần tiến sâu vào miền đất tương đương với nước Việt Nam ta ngày sau thì chúng vấp phải sự kháng
chiến quyết liệt, do đó quân Tần không
thể tiến sâu hơn vào đất miền Nam . Việc ấy được sử sách Trung
Quốc chép rõ.
Sử ký của Tư Mã Thiên (2.112)
chép rằng: “Nhà Tần lại sai Hiệu đô úy Đồ Thư đem quân Lâu Thuyền đi đánh Bách
Việt ở phương Nam, sai Giám Lộc đào cừ vận lương để vào sâu đất Việt. Người
Việt bỏ trốn. Quân Tần cầm giữ lâu ngày, lương thực thiếu hụt. Người Việt ra
đánh, quân Tần thua to. Nhà Tần lại sai Uý Đà đem quân đóng giữ đất Việt Đương.
Bấy giờ nhà Tần ở phía Bắc thì bị hoạ với người Hồ, ở phía Nam thì mắc với
người Việt, đóng binh ở đất vô dụng, tiến không được, thoái không được. Hơn
mười năm con trai mặc giáp, con gái chuyên chở, khổ không sống nổi, tự treo cổ
ở cây dọc đường xác chết nhìn nhau. Đến khi hoàng đế Tần mất thì thiên hạ cả
phản”. Trước Tư Mã Thiên thì Lưu An tác giả sách Hoài Nam Tử đã chép chi tiết
hơn rằng: “Nhà Tần tham cái lợi sừng tê, ngà voi, long chả, ngọc châu ngọc cơ,
lại sai quan uý là Đồ Thư phái 50 vạn binh, chia làm 5 đạo quân. Một đạo đóng ở
Đào Đàm Thành, một đạo giữ ải Cửu Nghi, một đạo đóng ở Đô Phiên Ngung, một đạo
giữ cõi Nam Dã, một đạo đóng ở sông Dư Can, ba năm không cởi giáp giãn nỏ. Giám
Lộc không có đường để chờ lương, lại lấy quân đào kênh mà thông đường lương, để
đánh người Việt, giết được quần trưởng Tây Âu là Địch Hu Tống. Nhưng người Việt
đều vào rừng rú, cùng ở với cầm thú, không chịu để cho nhà Tần bắt rồi cùng
nhau đặt người kiệt tuấn làm tướng, ban đêm ra đánh cả phá quân Tần, giết được
uý Đồ Thư. Quân Tần chết thương mấy chục vạn. Bèn phái những người bị đày đến
đóng giữ”.
Cuộc kháng chiến trường kỳ của
người Việt chống quân Tần đó là do một bộ phận người Tây Âu liên hiệp với người
Lạc Việt tiến hành, dựng lên nước Âu Lạc chặn đứng không cho người Hán tộc tiến
xuống đất Ấn Độ Chi Na và miền Đông Nam Á.
Thế là cái mưu đồ bành trướng
xuống Đông Nam Á của nhà Tần bị cuộc kháng chiến ngoan cường của tổ tiên dân
tộc ta làm thất bị từ tận thế kỷ III trước Công nguyên.
Tiếp theo Tần Thuỷ Hoàng là thuỷ
tổ của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc kế
thừa chế độ quân chủ chuyên chế của nhà Tần, không triều đại nào là không kế
thừa luôn chủ nghĩa bành trướng Đại Hán của Tần Doanh Chính.
Sau khi nhà Hán thống nhất Trung
Quốc, chấm dứt cuộc đại loạn tiếp sau khi nhà Tần sụp đổ, Hán Võ đế lại dốc
toàn lực lượng của Trung Quốc mới được phục hồi để tiến hành ngoại xâm đại quy
mô phía Bắc. Hán Võ Đế phái đến 120 vạn binh đánh đuổi bộ tộc Hung Nô khiến họ
phải lui về miền Mạc Bắc và một bộ phận là Nam Hung Nô phải đầu hàng và triều
phục nhà Hán, sang thời Đông Hán thì tướng quân Đậu Hiến lại mấy lần đánh phá
Bắc Hung Nô, khiến di tộc của họ phải sang phương Tây để sau này tham gia cuộc
đánh phá Tây đế chế La Mã. Về phía Tây Trung Quốc là các nước gọi chung là Tây
Vực, vốn là những nước phụ thuộc của Hung Nô, nhà Hán đương đánh phá Hung Nô thì
phái Trương Khiên, rồi nhà Đông Hán lại phái Ban Siêu sang sứ các nước ấy, vừa
dùng quân sự để uy hiếp doạ nạt vừa dùng
mưu mô để dụ dỗ mua chuộc, khiến uy thanh của Trung Quốc đạt đến tận bờ phía
Đông Địa Trung Hải. Về phía Tây Nam thì nhà Hán kiêm tính các nước nhỏ Tây Nam
Di trước kia nhà Tần chưa chinh phục được, đặc biệt là ba nước Dạ Lang, Điền,
Cùng Đô, đặt làm châu quận, còn ở phía nam thì Triệu Đà là một huyện lệnh của
nhà Tần ở quận Nam Hải đã thừa cơ cuộc loạn khoảng Tần Hán mà dựng nước Nam Việt,
Hán Võ Đế đã dùng mánh khoé kết hợp với quân sự diệt nước Nam Việt, rồi dùng
gián điệp và mưu gian mà chiếm luôn nước Âu Lạc cũ, chia đất này làm ba quận
Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Thế là cái mục tiêu nhà Tần dùng bạo lực đơn
thuần không thể đạt được, nhà Hán không mưu gian quỷ quyệt đã đạt được dễ hơn.
Nhưng nhân dân Âu Lạc vốn tha thiết tự do độc lập không thể cam tâm làm nô lệ
cho người phương Bắc sai khiến, nên chỉ sau khoảng một thế kỷ họ đã theo lời
hiệu triệu của hai vị nữ anh hùng Trưng Trắc, Trưng Nhị dòng dõi của Lạc tướng
Mê Linh, tức dòng dõi Hùng Vương của nước Văn Lang xưa, mà nổi lên đánh đuổi
bọn thống trị ngoại tộc, nhà Đông Hán phải phái viên lão tướng đầy kinh nghiệm
Mã Viện sang mới chinh phục lại được ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và áp
đặt hẳn chính sách trực trị để xúc tiến công cuộc đồng hoá dân Âu Lạc bằng sự
di thực ồ ạt những phần tử mạo hiểm và xấu xa trong dân gian Hán tộc và bằng sự
thâm nhập ào ạt của văn hóa Hán tộc. Nhưng trong suốt thời kỳ Bắc thuộc thứ hai
này nhân dân Âu Lạc vẫn bền bỉ chống đối, cuộc đấu tranh lâu dài ấy mở đầu bằng
những cuộc nổi dậy của quân lính Giao Chỉ và Cửu Chân không chịu để cho bon
quan lại Hán tộc điều động đi xâm lược lại nước Lâm Ấp mới được thành lập ở
quận Nhật Nam. Rồi sau đó cứ khoảng vài ba chục năm một lần, nhân dân Giao Chỉ
và Cửu Chân lại nổi lên đánh giết bọn quan lại Hán tộc tàn bạo tham nhũng.
Sang thời Tam Quốc, anh em cha
con Sĩ Nhiếp dùng thủ đoạn khôn khéo trấn an nhân dân Giao Chỉ, Cửu Chân nên
giữ vững được cục diện hơn hai chục năm, nhưng sau khi Sĩ Nhiếp chết thì bọn
quan lại địa phương cướp giết lẫn nhau, nhân dân lầm than, một vị tù trưởng ở
Cửu Chân là Triệu Quốc Đạt và em gái tục danh là Triệu Ẩu nổi lên chống bọn
quan lại nước Ngô trong cả nửa năm trời. Qua sự ghi chép vắn tắt và thiếu sót
của chính sử Trung Quốc, chúng ta cũng có thể thấy rằng sự chống đối của nhân
dân Âu Lạc trong suốt năm thế kỷ của thời kỳ Bắc thuộc thứ hai từ sau Mã Viện
không bao giờ ngớt. Đến thời Nam Bắc triều nhân cuộc suy đốn của Trung Quốc bị
các bộ tộc phương Bắc chèn ép và xâu xé, nhân dân Âu Lạc cũ đã cử hành một cuộc
khởi nghĩa đại quy mô dưới sự lãnh đạo của Lý Bôn, muốn xây dựng một triều đại
tự chủ chỉ tồn tại hơn nửa thế kỷ, rồi đến khi nhà Tuỳ thống nhất được Trung
Quốc thì ách thống trị của phong kiến Hán tộc lại được đặt trở lại trên toàn
cõi đất Âu Lạc xưa, tới thời kỳ Bắc thuộc thứ ba.
Sau khi nhà Đường thay nhà Tuỳ mà
thống nhất hoàn toàn Trung Quốc, Đường Thái Tôn nghĩ ngay đến chuyện bành
trướng về phương Bắc và phía Tây. Lý Thế Dân kiêm dùng cả hai chính sách quân
sự và thông hôn, dùng quân sự để diệt bộ tộc Đột Quyết mà chiếm tất cả vùng
phía Nam Đại Mạc, lại dùng quân sự kết hợp với thông hôn mà diệt luôn bộ tộc
Thiết Lặc mà chiếm luôn cả miền Mạc Bắc, rồi lần lượt diệt cả các nước Tây Đột
Quyết, Qui Tư, Cao Xương, Thổ Phồn, Thổ Cốc Phồn ở miền Tây Vực. Sau lại kết
hợp quân sự và chiêu dụ mà thần phục được cả các nước Thiên Trúc (tức Ấn Độ),
mở mang bờ cõi đến sát Ấn Độ Dương và Địa Trung Hải. Về phía Đông thì Đường Thái
tôn không thể để yên nước Cao Ly là một nước mạnh ở miền biển chưa chịu thần
phục. Sau một cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc kéo dài 25 năm, nhà Đường
chiếm được toàn bộ Cao Ly, cho Tiết Nhân Quí làm An Đông đô hộ đóng quân ở Bình
Nhưỡng để trấn thủ. Ở phía Nam thì nước Vạn Xuân bị nhà Tuỳ diệt Lý Phật Tử mà
chiếm lại, nhà Đường thừa thế đặt An Nam đô hộ phủ ở Giao Chaâ (trung tâm là
miền Hà Nội) làm một chính quyền quân phiệt để trấn áp thuộc quốc. Nhưng dưới
ách thống trị quân phiệt tàn ngược nổi lên, đặc biệt họ liên kết với người Nam
Chiếu ở Tây Bắc và người Chiêm Thành ở Nam làm cho chính quyền đô hộ của nhà
Đường suy yếu dần mà cuối cùng đến khi nhà Đường suy vong, họ Khúc thừa cơ tự
cường để cho Ngô Quyền lật đổ hẳn ách thống trị của phong kiến Hán tộc mà xây
dựng nền tự chủ dân tộc.
Như thế là sau hơn một nghìn năm
của nạn thống trị ngoại tộc luôn luôn bị cắt quãng bằng những thời khởi nghĩa,
hoặc hỗn loạn, hoặc giải phóng ngắn ngủi, tổ tiên chúng ta từ cuộc kháng chiến
bất khuất của Liên hiệp Tây Âu – Lạc Việt đến cuộc quật cường của họ Ngô, là
thành phần duy nhất trong các nhóm Bách Việt ở miền Nam Trung Quốc giữ trọn khí
phách và bản lãnh của mình mà chống lại sự đồng hoá, sự tiêu hoá của cái khối
khổng lồ Hán tộc đã từng đồng hoá và tiêu diệt bao nhiêu tộc loại sừng sỏ ở
xung quanh.
Từ sau khi các họ Ngô, Đinh và
Lý, Trần kế tiếp nhau xây dựng những triều đại tự chủ và theo hình mẫu của chế
độ chính trị mà các triều đại phong kiến Trung Quốc trước kia đã đế lại ấn tích
qua hơn nghìn năm của mưu đồ đồng hoá trường kỳ, các triều đại phong kiến Trung
Quốc tương đương các nhà Tống, Nguyên, Minh, Thanh vẫn không bao giờ từ bỏ ý đồ
ăn sống nuốt tươi cái dân tộc nhỏ bé hơn dân tộc chúng nhiều mà luôn luôn làm
vật chướng ngại duy nhất chặn đường không để cho chúng thả sức thực hiện tham
vọng bành trướng Đại Hán của chúng xuống miền Đông Nam.
Sau khi nhà Tống thống nhất và ổn
định tình hình của Trung Quốc bị xâu xé bởi cuộc diện Ngũ đại thập quốc, Tống
Thái Tổ mưu đồ xây dựng một chế độ trung ương tập quyền hùng hậu với một lực
lượng quân sự rất lớn nhằm đề phòng những cuộc nổi loạn chống mình, nhưng mưu
đồ ấy dẫn đến cái tình hình chính trị hủ bại, tướng kiêu, binh nhác, phú thuế
không hai, vét hết của cải của cả nước mà nuôi nấng binh lính ăn không, binh
càng nhiều mà thế lực càng yếu. Nhà Tống suy yếu, không thể đối phó với sự uy
hiếp của bộ tộc Nữ Chân, phải nhường cắt cho nhà Kim nửa nước phía Bắc, mới
nghĩ đến mưu chước bành trước sang nước ta để mong cứu vãn nguy cơ ở trong,
nhưng quân Tống hai lần bị Lý Thường Kiệt đánh đuổi vào đến tận nội địa Trung
Quốc.
Nhà Tống đã bị con cháu Thành Cát
tư Hãn tiêu diệt, bộ tộc Mông Cổ chiếm cứ toàn bộ lãnh thổ và thuộc quốc của
Trung Quốc trong phạm vi rộng hơn các thời Hán, Đường. Trên đà phát triển ghê
gớm của quân Mông Cổ ra tứ phương, người Mông Cổ bị văn hoá ưu việt của Hán tộc
đồng hóa, các vua Mông Nguyên không thể không kế thừa luôn cái chủ nghĩa bành
trướng Đại Hán của các triều đại Trung Hoa, cho nên đã ba lần xua quân mạnh
nhất thế giới đương thời để xâm lược An Nam (tên người Trung Quốc gọi nước ta
từ thời Đường) mà cả ba lần đều bị quân ta dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Tuấn
đánh bại xiểng liểng không thể bén mảng được xuống miền Đông Nam Á.
Chu Nguyên Chương, Thái tổ nhà
Minh khôi phục chủ quyền dân tộc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế cực
đoan, tàn sát công thần, tàn sát văn nhân, giết hại nhân mạng không sao kể
xiết. Con thứ của Nguyên Chương là Chu Đệ nổi loạn, đánh giết anh để cướp ngôi,
lại một phen giết người như rạ, để trấn áp nhân tâm, rồi phát động ngoại xâm để
đề cao uy vọng của mình, do đó sai hoạn quan Trịnh Hoà đem binh thuyền chở 2
vạn người đi sứ các nước Đông Dương quần đảo và sai Trương Phụ đem 80 vạn binh
xâm lược nước ta, kế tục thực hiện cái ý đồ bành trướng xuống Đông Nam Á mà lực
lượng quân sự mạnh nhất thế giới bọn thống trị Mông Nguyên cũng không thực hiện
nổi. Nhưng không vượt nổi bức tường thành vĩ đại là cuộc kháng chiến trường kỳ
của thầy trò Lê Lợi, Minh Thanh Tổ đành phải dùng chính sách thông thương quốc
doanh, bảy lần sai Trịnh Hoà dùng binh thuyền vượt biển xuống các đảo quốc miền
Đông Nam Á để thoả mãn yêu cầu mậu dịch mà sự phát triển kinh tế của xã hội
Trung Quốc từ thời nhà Nguyên mở rộng quan hệ với người Tây dương đặt ra.
Lại một lần nữa mưu đồ bành
trướng Đại Hán của Trung Hoa bị chặn đứng. Nhưng do sự yêu cầu thông thương hải
ngoại đó của xã hội Trung Hoa mà một số lớn tư nhân trốn tránh cấm chế vượt
biên doanh thương đã hình thành những tập thể Hoa Kiều ở các nước Đông Nam Á mà
thư tịch Trung Quốc gọi là Trải Oa (Java), Tam phật tề hay Cựu Cang, Ma Lục
Giáp (Malacca), Tô-môn-đáp-lạp (Sumatra), Lữ căn cứ đắc lực cho chủ nghĩa bành
trướng Đại Hán.
Cuộc kháng chiến ngoan cường của
Lê Lợi đã dồn nhà Minh đến thế suy vi, khiến cuối cùng Trung Quốc bị bộ tộc Mãn
Thanh chinh phục. Nhưng cũng như các rợ Hồ và Mông Cổ trước kia, bộ tộc Mãn
Thanh văn hoá thấp kém dùng võ lực mà đánh bại được Trung Quốc suy đốn bạc
nhược, nhưng họ đã bị hấp thu vào văn hoá cao hơn của Hán tộc; mà cái sức hấp
thu văn hoá và xã hội Hán tộc mạnh mẽ cho đến nỗi, cũng như trường hợp người
Mông Cổ trước kia, các hoàng đế Mãn Thanh sau khi bị đồng hoá theo Hán tộc đã
bị tinh thần Đại Hán chinh phục luôn mà lại xem mình là những kẻ kế thừa đích
phái của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Trên tinh thần ấy, nhà Mãn Thanh đã
dùng binh lực áp đảo cả bộ tộc Nội Mông và Ngoại Mông và các bộ tộc theo Hồi
giáo ở phía Nam và phía Bắc Thiên Sơn (Tân Cương) lấn chiếm các đất Tây Tạng
(trước là Thổ Phồn), Thanh Hải, Miêu Cương (khu Miêu tộc ở miền Đông Vân Nam,
Quí Châu), cả nước nhỏ Nê Bạc Nhi (Nepal) ở sát Ấn Độ và buộc cả các nước Miến
Điện, Xiêm La đều phải xưng thần triều cống. Trên dải đất Ấn Độ Chi Na, lại
cũng chỉ có dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của vị anh hùng áo vải Nguyễn
Huệ là quét phăng được mấy chục vạn binh Mãn Hán, do cái tội rước voi về giày
mồ của vua Lê Chiêu Thống mà kéo vào giày xéo thành Thăng Long một thời gian
ngắn, do đó mà quân lực hùng hậu của Mãn Thanh đã gãy mất đầ tiến xuống các
nước miền Nam Dương, một lần cuối cùng cái mộng làm bá chủ nghĩa Đại Hán lại bị
đập tan. Mãi đến giữa thế kỷ XIX từ khi chính Trung Quốc bị các nước đế quốc
chủ nghĩa Tây Phương xâu xé, bọn vua chúa Hán tộc mới phải tạm ngưng cái tham
vọng thôn tính nước ta, nhưng bấy giờ thì nước ta lại bước vào một giai đoạn
đấu tranh gian khổ mới là giai đoạn chống chủ nghĩa thực dân Pháp.
Nhìn qua lịch trình đấu tranh ác
liệt của dân tộc ta như thế thì có thể nói rằng lịch sử Việt Nam từ thời cổ
đại đến suốt cả thời kỳ phong kiến quả là lịch sử đấu tranh không mệt mỏi, ở vị
trí mấu chốt chống mưu đồ thôn tính của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.
Cái vận mệnh đặc thù như thế của
tổ tiên chúng ta cố nhiên không phải là một chuyện may rủi ngẫu nhiên. Trong
khi tìm hiểu về cái vận mệnh đặc thù của dân tộc, chúng tôi xin ghi lại đây một
số suy nghĩ như sau:
Địa bàn sinh tụ của dân tộc ta ở
trên góc chót về Đông Nam của lục địa châu Á, nhìn ra Thái Bình Dương, cái góc
lục địa này do ba giải núi từ khối cao nguyên Tây Tạng chẻ ra làm những sơn
mạch Miễn Điện, Lào và Việt Nam tạo thành cõi đất mà các nhà địa lý học Tây
phương gọi là Ấn Độ Chi Na, ở giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Những sông lớn từ vùng
núi cao Tây Tạng chảy ra đã xây dựng những thung lũng tỏa ra nhiều những đồng
bằng rất thích hợp cho nghề cấy lúa. Ở triền phía Đông của sơn mạch Việt Nam và Lào,
toàn những sườn phủ đầy rừng rậm thỉnh thoảng được khảm một mảnh nương do người
mới vỡ và ở dưới thì chẻ ra mấy thung lũng hẹp ở mép rừng xanh với những ruộng
nước ở đáy thấp và những ruộng bậc thang trên sườn đồi hai bên. Đó là địa vực
cư trú của những tộc ít người từ xưa quen ở rải rác giữa núi rừng để kiếm ăn
bằng canh nông và săn bắn. Ở dưới nữa là miền trung du với những thung lũng lớn
và những đồi thấp cùng miền đồng bằng do hai sông lớn là sông Hồng và sông
Khung cùng chi lưu của chúng tạo thành, lấn dần ra đại dương bằng một dải bờ
biển dài; đó là địa vực cư trú của dân tộc Việt ta đã thảm đạm kinh dinh trải
hàng ba mươi thế kỷ. Chính vị trí và địa bàn sinh tụ ấy đánh dấu và chi phối
vận mệnh và sứ mệnh của dân tộc ta trong lịch sử.
Điều kiện sinh hoạt trên địa bàn
ấy rèn luyện cho nhân dân ta một nếp sống vất vả và cần cù, một yếu tố quan
trọng của sức mạnh mà chúng ta cần có để đấu tranh với cuộc sống.
Cái địa thế của lãnh thổ nước ta
ở nơi “góc bể bên trời’’, ngay trên đường di động lớn của các chủng tộc châu Á
theo cái hướng nghìn xưa từ Tây Bắc xuống Đông Nam, tức núi cao ra biển cả, lại
đặt tổ tiên chúng ta vào một tình thế gay go nữa phải đấu tranh để sống còn.
Như đã biết, ngay từ buổi đầu lịch sử, tổ tiên dân tộc chúng ta, người Lạc Việt
và người Tây Âu đã đương đầu thắng lợi với cuộc xâm lược của mấy chục vạn quân
Tần là lực lượng quân sự hùng mạnh nhất của châu Á mà có lẽ của cả thế giới
thời bấy giờ. Trong tất cả các nhóm Việt tộc ở miền Nam Trung Quốc đều có văn
hóa đồ đồng ở một trình độ xấp xỉ ngang nhau, có thể nói văn hóa đồ đồng của
nhóm Lạc Việt đã đạt đến trình độ tương đối cao hơn cả những di vật điển hình
là trống đồng Ngọc Lũ và thạp đồng Đào Thịnh. Đó là một trong những ưu điểm về
phương diện văn hóa. Trong đồ đồng Lạc Việt và những di vật khảo cổ khác cùng
một hệ thống không có những dấu vết chứng tỏ ở xã hội Lạc Việt đã thịnh hành
chế độ nô lệ, mà đồ đồng của nhóm Việt tộc ở Thạch Trại Sơn thuộc tỉnh Vân Nam
thì thấy có những chứng tích hiển nhiên về chế độ này, và ở miền Nam Việt trên
đất Quảng Đông, Quảng Tây thì sử sách Trung Quốc chép rõ rằng ở thời nhà Triệu
đã có tình trạng bắt nô lệ đem bán cho nước Hán. Sự phân hóa giai cấp chưa sâu
sắc lắm có lẽ cũng là một yếu tố gây nên sức mạnh đoàn kết của những thành phần
công xã còn được tự do bảo vệ đất đại của mình. Những hình thuyền khắc trên
trống đồng và thạp đồng lại cho thấy rằng người LạcViệt là nhóm người mà tổ
tiên đã từng vượt biển trong những cuộc viễn du, có lẽ là từ miền khác đến địa
bàn hiện tại, điều ấy có thể liên hệ đến tinh thần dũng cảm mạo hiểm của họ.
Cuối cùng chúng tôi nghĩ rằng những người định cư trên mảnh đất này bị kẹt ở
giữa bốn mặt, phía Bắc là miền đất Quảng Đông Quảng Tây đã bị Hán tộc hùng
cường chiếm được, phía tây là rừng sâu núi cao không thể vượt qua, phía Nam là
những bộ tộc mà con cháu là dân tộc Chiêm Thành là những bộ tộc ngoan cường
không dễ gì mà lấn được, phia Đông là sóng cả biển sâu mà sinh hoạt định cư từ
bao lâu đã khiến họ không quen vượt xa được nữa. Trong tình thế ấy người ta khó
lòng có chỗ rút lui an toàn trước sức ép của người Hán tộc, cho nên người ta
phải sống chết bám lấy mảnh đất của mình mà sáng tạo cái chiến lược chiến thuật
vô cùng công hiệu khi một cộng đồng người nhỏ bé phải đương đầu với một lực
lượng quân sự hùng hậu, tức chiến lược lấy ít đánh nhiều, chiến thuật chống
trường bằng đoản mà ngày sau gọi là du kích. Chính cái nhu cầu bám đất ấy đã
khiến tổ tiên chúng ta, từ nước Âu Lạc trải qua hàng nghìn năm tuy bị Hán tộc
đô hộ mà không bao giờ chịu ngừng chống cự, đã xây dựng cuộc sinh tụ và phát
triển bằng một phương thức tổ chức thích hợp nhất là công xã nông thôn.
Công xã nông thôn xưa, hình thức
cuối cùng của công xã nguyên thủy, còn để hình ảnh tương đối đậm nét của nó ở
các làng Mường, nhất là tại miền trung du Thanh Hóa. Các làng xã ở vùng đồng
bằng trong thời phong kiến và thời Pháp thuộc vẫn là hình thức tiến triển của
công xã nông thôn. Điển hình quen thuộc của công xã nông thôn tiến triển ấy là
các làng gồm nhiều nhà thuộc về mấy họ, có khi là cùng một họ, chia ra làm
nhiều xóm, tụ tập nhau ở sau cái lũy tre cổ điển làm giới tuyến bất khả xâm
phạm cho công xã, và ở xung quanh một ngôi đình là nơi hội họp và một ngôi đền
thờ vị thành hoàng, nhiều khi là người tộc trưởng khai khẩn hay là khai khai
canh.Ở quanh lũy tre là ruộng đất công và tư chia làm những mảnh nhỏ theo nhiều
hình dạng khác nhau tùy theo địa thế. Khắp miền đồng ruộng cò bay thẳng cánh,
những làng nấp sau lũy tre ấy hiện lên như những hòn đảo ở giữa biển lúa xanh
hoặc nối tiếp như xiết chặt tay trên những doi đất dài, nhất là dọc bờ sông, bờ
biển. Sự sống bám đất của con người đã rèn luyện cho các công xã ấy một sức
mạnh dẻo dai với lòng thiết tha độc lập tự do và tinh thần tương trợ giữa các
gia đình và làng xã, khiến chúng ta có thể trải qua bao nhiêu thiên tai và nhân
họa mà vẫn đứng vững. Lụt báo có thể phá
ruộng phá đê, sập nhà sập cửa, hễ nước rút gió lặng là người ta lại giúp nhau
xây dựng và cấy trồng trở lại để tiếp đời sống lam lũ cần cù. Mỗi lần đất nước
bị xâm lăng, làng mạc bị phá hoặc bị san
bằng, người nông dân bất đắc dĩ phải tản đi để chuẩn bị chống trả, hễ giặc rút
lui là người ta lại về tập hợp họ hàng làng xóm và xây dựng tất cả lại từ đầu,
rồi lại âm thầm làm lụng để chờ một thiên tai hay một nhân họa mới lại quét
sạch trơn, để rồi sau đó nhà cửa, làng xã, lũy tre, ruộng nương lại nổi dậy
tươi xanh như trước. Cái tổ chức ấy, cái nếp sống ấy khiến dân tộc ta như một
cơ thể bất tử, bị chặt nát ra từng đoạn vẫn sống để cuối cùng hợp nhau lại cho
cả cơ thể hồi sinh.
Một nét đặc biệt nữa của công xã
nông thôn là mỗi khi sự sống sinh sôi nảy nở của các gia tộc khiến sự sống trở
thành quá chật chội ở quê cha đất tổ thì người nghèo khổ nhất hay những người
tháo vát nhất, rủ nhau làm như tổ ong chia đàn, tạm từ giã bà con làng xóm, đem
theo cả gia đình của mình tìm nơi đất trống ở miền hoang vu cách xa nhiều ít để
khai phá thành ruộng nương vườn tược mà xây dựng một làng xã mới theo như kiểu
mẫu của làng xã quê hương, nhiều khi rước theo cả bát hương của vị thần thành
hoàng làng quê cũ mà thờ, hay tôn người tộc trưởng khai canh hoặc khai khẩn mới
làm thành hoàng che chở nhân dân. Nhiều khi Nhà nước là cơ quan tập hợp và chi
phối các công xã ở trên cũng đứng ra làm công việc khai hoang, hoặc bằng lực
lượng nhân dân dưới sự đốc suất của một ông quan dinh điền hay điền tuấn, hoặc
bằng lực lượng quân sự tổ chức thành đơn vị đồn điền rồi cứ theo nhịp độ tiến
hành của công việc khai hoang mà xây dựng dần những công xã nông thôn mới theo
kiểu mẫu điển hình để gieo cho những người khai hoang chiếm lĩnh những đất đã
vỡ. Những đất hoang ở bờ biển hay ở nơi biên giới xa xôi thường được kinh dinh
như thế.
Do sự tồn tại bền bỉ dẻo dai của
các công xã nông thôn, dân tộc ta có một đặc tính kỳ lạ có khả năng hấp thu
tiêu hóa mọi thành phần khác mình mà lịch sử đã cho tiếp xúc. Trong xuất cuộc
Bắc thuộc hàng nghìn năm tổ tiên chúng ta đã hấp thu tiêu hóa những yếu tố văn
hóa của người Hán tộc mỗi thời di cư sang, hoặc là những người tù tội bị đày,
hoặc là những người tránh loạn, hoặc là những thương nhân và quan lại, hoặc là
những đạo sĩ tăng đồ truyền giáo. Thậm chí những người Trung Quốc ở lại hẳn đã
sinh cơ lập nghiệp mà không có thống kê để biết được là bao nhiêu vạn ức người,
cuối cùng đã bị dân tộc ta hấp thu và tiêu hóa. Những người Hán tộc này chỉ dăm
ba đời sau là biến thành người bản địa, ví như Lý Bôn, Trịnh Thiều thời Nam Bắc
triều ở Giao Chỉ, và có khi chỉ một đời như Lê Cốc thời Tùy ở Cửu Chân là trở
thành người Việt cùng với nhân dân Việt nổi lên đánh đuổi quan lại và quân lính
Trung Hoa mà được nhân dân Việt thờ làm anh hùng dân tộc. Hán tộc là một dân
tộc lớn có sinh khí mạnh mẽ bao nhiêu, từ mấy nghìn năm đã hấp thu bao nhiêu
tộc loại mà họ gọi là Man Di Nhung Địch ở bốn xung quanh để càng lớn càng mạnh
hơn nữa, đã có năng lực đồng hóa những người Kim, Mông Nguyên, người Mãn Thanh,
những người đã chinh phục và chiếm giứ đất nước họ từ mấy chục đến mấy trăm
năm, thế mà khi tiếp xúc với dân tộc Việt Nam, tuy rằng có khi có thể lấy thịt
đè người mà đắc thắng tạm thời, cuối cùng đều bị chúng ta đồng hóa. Cái sức
đồng hóa kỳ diệu ấy do đâu mà có được? Đối với người Hán tộc thì không phải là
do sự cưỡng ép bạo lực đã đành, mà đối với những người phương Nam như Chiêm
Thành chẳng hạn cũng không thấy mấy khi dùng bạo lực để cưỡng ép đồng hóa.
Chính là sức hấp dấn kì diệu của công xã nông thôn Việt Nam đã gây nên
sự đồng hóa nhẹ nhàng ấy. Với quan hệ chặt chẽ giữa các thành phần, công xã
nông thôn vốn là một tập thể đóng kín khiến nó nhất thiết không dung nạp những
phần tử lạ, vì tất cả những cái gì lạ đều là đáng ngờ. Những người dân ngoại
tịch phần nhiều là những dân lang thang không gốc rễ thường làm những nghề
không lấy gì làm lương thiện lắm, phải sống ngoài lề của cộng đồng. Nhưng đến
khi người nào đã tỏ rõ là người lương thiện chăm lo bản nghiệp (làm ruộng và
học hành) thì cộng đồng rất cởi mở vui vẻ nhận vào tập thể của mình mà lấy tình
lấy nghĩa nông đỡ đùm bọc nhau. Chính cái tính cởi mở tình nghĩa ấy cộng tồn
bên cạnh cái tính đóng kín ngiêm ngặt đã khiến người ta không còn có thành kiến
kỳ thị với những người trước lạ sau quen và bằng những quan hệ hôn nhân và giao
hảo, những thành phần mới cũ không còn gì phân biệt nhau nữa. Sự cộng tồn của
hai năng khiếu đối lập ấy tạo thành sức mạnh vô địch luôn luôn tăng tiến của
công xã và của dân tộc, khiến bạo lực dựa trên vũ khí ghê gớm nhất của bọn thực
dân cũ và mới gần đây cũng vẫn không làm gì nổi. Một nhà học giả người Pháp
từng sống nhiều năm gần gũi nhân dân Việt Nam đã viết rất đúng rằng: “Trong một
nước được nhào nặn về mặt chính trị như nước này bằng những cuộc xâm lược,
kháng chiến kết đảng, nổi dậy, một môi trường tự nhiên xã hội như vậy đặt cho
cái bí mật những quy tắc riêng… Trong những cánh đồng lúa ấy, thường thường
không còn xó xinh tự nhiên nào cho người ta có thể rút lui như rừng rú chuông
chằm. Nếu con người muốn nấp kín hay trốn biệt thì chỉ có thể nấp trốn sau
người khác… Những khối dân tộc đông đúc là một nơi trú ẩn công hiệu để chống
lại kẻ địch tiếng nói khác và màu gia khác’’. Như thế thì kẻ địch ngoại lai
không thể lọt vào làng để dò xét tình hình, mà khi quân địch ào ạt kéo đến để
mong chụp cả làng thì sự chống cự của cả làng có bờ tre làm thành lũy, hoặc là
có thể đánh lui quân địch không thể bấu víu vào đâu, hoặc là lúc đầu không
chống nổi thì phải rút lui để cho quân địch vào chiếm làng không và đốt phá,
rồi sau khi tập hợp lực lượng chờ cho quân địch trễ tràng thì sẽ úp đánh trở
lại, rồi sau khi quân địch bị tiêu diệt hay rút lui thì lại trở về để vừa tiếp
tục làm ăn, vừa bố phòng chuổn bị đợt tiến công khác của địch. Cái sức mạnh của
công xã vừa là sức mạnh của một tập thể đồng tâm hợp lực cùng sống chết, cứng
như thép, đồng thời là sức mạnh của một tập thể uyển chuyển mềm dẻo như nước mà
Lão tử đã nói là: “Thiên hạ không gì yếu mềm bằng nước mà đánh cái cứng mạnh
không gì hơn nó”. Với cái sức mạnh vô địch như thép và như nước ấy của công xã
nông thôn, tổ tiên chúng ta trước kia đã đánh bại quân Tần và sau hàng nghìn
năm thử thách đã đánh bại được mọi lực lượng bành trướng của Hán tộc, đồng thời
lại hấp thu được mọi yếu tố tích cực của nhân dân Trung Quốc mà tăng thêm sức
mạnh cho mình.
Cần phải nói thêm rằng đối với
chủ nghĩa bành trướng Đại Hán thì dân tộc ta đời nào cũng cương quyết đấu tranh
và hết sức mình ngăn chặn, song đối với văn hóa Hán tộc mà thực tế lịch sử đã
khiến dân tộc ta phải tiếp xúc và nhiều khi chung đụng, thì dân tộc ta vẫn biết
trân trọng những giá trị tích cực thật sự đã khiến tổ tiên chúng ta, mặc dầu
trải qua bao nhiêu mất mát to lớn và hi sinh đau đớn, đã có thể từ một cộng
đồng bán nguyên thủy chất phác trở thành một dân tộc mà vị anh hùng dân tộc
trọn vẹn Nguyễn Trãi ngay trong đầu bài Bình Ngô Đại Cáo là áng Hiến chương độc
lập của dân tộc đã tuyên bố lớn rằng dân tộc ta vốn là: “Văn hiến chi bang” và
đồng thời đã nêu nhân nghĩa của Khổng Mạnh làm giá trị đạo đức cơ bản chi phối
cả cuộc khởi nghĩa: “Điếu dân phạt tội” chống chủ nghĩa Đại Hán.
Tất cả các giá trị tích cực của
các nhà tư tưởng Hán tộc ở thời Tiền Tần, từ Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử, Lão Tử
đến Tuân Tử, ngay cả sau Tần Hán từ khi các học thuyết của Nho gia, Đạo gia,
Phật gia nói chung đã bị bọn thống trị phong kiến biến thành lợi khí đàn áp và
nô dịch tinh thần đối với nhân dân, các giá trị tích cực của các học giả ưu tú
Trung Quốc còn giữ được phẩm chất làm người đời nào cũng vẫn còn có mặc dầu
hiếm hoi, thì các nhà nho ưu tú nước ta, từ Chu An đời Trần, Nguyễn Trãi đời
Lê, Ngô Thì Nhậm, Võ Trường Toản đời Tây Sơn, cho đến cả loạt sĩ phu ái quốc
trác tuyệt trong thời chống thực dân Pháp, từ Phan Đình Phùng đến Phan Bội
Châu, đều đã trân trọng tiếp thu mà làm giàu cho kho tàng tư tưởng của dân tộc.
Về văn chương thì những giá trị quí báu trong khi văn Trung Quốc từ Phong Tao
thời Tiền Tần đến các thi phẩm trác tuyệt thời Đường thời Tống thì các thi hào
văn hào nước ta trải các đời đều lấy làm mẫu mực để noi theo. Chữ Hán mà bọn
phong kiến Trung Quốc cho tổ tiên chúng ta học vốn để dùng làm công cụ hành
chính đã được tổ tiên chúng ta chuyển dùng làm văn tự dân tộc mà mọi người trìu
mến gọi là chữ Ta. Cái “tình nghĩa” sâu sắc lồng qua những ảnh hưởng tích cực
của văn hóa Trung Quốc đó, dân tộc ta vẫn luôn luôn trân trọng. Cho đến cả
những viện trợ vật chất mà Trung Quốc đã dành cho nước ta trong thời kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong thực tế đã góp phần đáng kể vào cuộc kháng
chiến thắng lợi ở Điện Biên Phủ và vào cuộc toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí
Minh, chúng ta cũng vẫn trân trọng mà xem là biểu hiện tình hữu nghị chân thành
giữa dân tộc Trung Hoa và dân tộc ta trong mấy chục thế kỷ.
Đấy là những yếu tố tạo nên bản
lĩnh của dân tộc Việt Nam ,
để có thể ngẩng cao đầu mà tồn tại cho đến ngày nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét