thư mục

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

“Thời khắc Munich” của nước Mỹ?



So sánh Đông Á với châu Âu thập niên 1930 thật chẳng có gì chung. Vậy, có phải chính quyền Obama quả thật đang nhân nhượng Trung Hoa một cách vô lối không?

Tôi đã ngưỡng mộ Thượng nghị sĩ James Webb bang Virginia từ cuối những năm 1980, khi tôi là một sĩ quan hải quân Mỹ mới được bổ nhiệm còn ông là Tổng Tham mưu trưởng Hải quân (secretary of the navy). Ngoài những thành tích đạt được trên cương vị người làm chính sách và nhà lập pháp, Webb còn là một cựu chiến binh đánh thủy của Mỹ ở Việt Nam, từng được tặng huy chương; một tiểu thuyết gia, sử gia đáng chú ý, và là con cháu của những người nhập cư Scotland-Ireland đã định cư và góp phần xây dựng nên miền nam nước Mỹ? Có lý do gì để tôi không thích ông? Vì vậy, khi ông phát biểu rằng Mỹ “đang tiến gần đến thời khắc Munich với Trung Hoa” trên biển Hoa Nam (tức Biển Đông – ND), ta rất nên xem xét lời ông một cách nghiêm túc.

Ông nói vậy ngang với việc nạp đạn vào súng. Nếu như có một “thời khắc Munich” đang thành hình, thì ai là nhân vật chính đây? Dường như Webb xếp Trung Hoa vào vai nước Đức quốc xã – một thế lực hung tàn, hám lợi, tìm cách tăng cường ảnh hưởng chính trị của nó và hy sinh quyền lợi của các nước nhỏ. Điều này làm cho Chủ tịch Hồ Cẩm Đào trở thành bản sao của nhà độc tài Đức Adolf Hitler. Tổng thống Obama thì đóng vai Neville Chamberlain, ông thủ tướng Anh mà vào năm 1938 đã đem phần lớn lãnh thổ Czechslovakia ra đổi chác, những mong làm dịu cơn khát đất của Hitler. Chamberlain trở về nhà và được hoan nghênh ồn ã; ông ta tuyên bố là phương Tây đã đàm phán được “hòa bình trong thời đại của chúng ta”. Các nguyên thủ Anh và Pháp cũng tìm cách kéo dài thời gian, đề phòng trường hợp hòa bình tan vỡ. Bằng việc đẩy các nhu cầu của Hitler sang những lãnh thổ của người thiểu số Germain, họ đã có thêm thời gian để tái thiết lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh sắp tới ở châu Âu. Các nước Đông Nam Á bây giờ là nước Czechoslovakia bất lực của ngày ấy. Họ không tài nào ngăn cản nổi việc các siêu cường đem lợi ích sống còn của họ ra mà đổi chác – thậm chí cuối cùng là trao đổi cả sự tồn tại của họ với tư cách quốc gia. Bảng phân vai của Webb có thể chẳng làm cho nhân vật nào trong vở kịch đang được trình diễn trên Biển Đông kia hài lòng.

“Munich” là cách gọi tắt của khái niệm “nhân nhượng vô nguyên tắc”, một khái niệm mà từ năm 1938 đã mang những hàm nghĩa nặng nề. Tuy nhiên cần phải chỉ ra rằng nhân nhượng là sự trao đổi ngoại giao thường gặp trong tình hình bình thường. Các nước đều luôn luôn phải thỏa hiệp, họ cũng nên làm như thế. Liệu Munich – nỗi ô nhục của việc nhân nhượng những con thú ăn thịt người – có phải là một phép ẩn dụ thích đáng để chỉ cách hành xử của Mỹ trong những tranh chấp hàng hải làm đục ngầu nước Biển Đông?

Chúng ta hãy phân tích sự tương đồng để xây dựng một số thông số khi tìm hiểu về các sự kiện trên Biển Đông. Trước hết, Czechoslovakia là đối tượng thứ yếu, không mấy quan trọng, của những kẻ đã thỏa thuận nhân nhượng kia. Mối đe dọa đối với hòa bình, như lời Chamberlain, xuất phát từ “một cuộc cãi vã ở một nước xa xôi, giữa những người mà chúng ta chẳng hiểu gì”. Chiến đấu vì Czechoslovakia gần như là điều mà Anh và Pháp không thể tưởng tượng nổi. Người Mỹ hiếm khi theo dõi tình hình chính trị Đông Nam Á, mặc dù khu vực ngã tư hàng hải này có tầm quan trọng rất lớn đối với mậu dịch toàn cầu và thương mại Mỹ. Các nhà lãnh đạo của Philippines khăng khăng cho rằng hiệp ước an ninh năm 1951 giữa Manila và Washington đã quy định cả những yêu sách chủ quyền trên Biển Đông. Liệu người Mỹ có chiến đấu để bảo vệ những yêu sách đó của Philippines không, hay là những cái đó chỉ là chuyện thứ yếu, cũng giống như chủ quyền của Czechoslovakia trong mắt các cường quốc phương Tây năm 1938?

Thứ hai, phái đoàn Anh-Pháp đã dâng đối tượng thứ yếu này (Czechoslovakia) cho con thú hung dữ đói đất (Đức Quốc xã) để đổi lấy hòa bình tạm thời. Trước đó Hitler đã gom đủ thành tích xâm lược. Vào năm 1936 chẳng hạn, quân đội Đức tái vũ trang vùng Rhineland. Bằng cách ấy, Berlin bắt đầu phá bỏ Hiệp ước Versailles – hiệp ước chấm dứt Thế chiến I và áp đặt nghĩa vụ bồi thường nặng nề lên nước Đức bại trận. Đầu năm 1938, Hitler gây áp lực với Áo, buộc Áo phải chấp nhận Anschluss (Liên minh Đức-Áo), tức liên minh trong một nước Đức đế quốc rộng lớn hơn. Khi đó, tại Munich, các nhà lãnh đạo Pháp và Anh đưa ra một loạt thỏa hiệp có tác dụng kích thích cơn thèm khát của con thú đói đất. Sau khi cho đi Sudetenland – một thành phố công nghiệp của Czechoslovakia, dân cư chủ yếu là người Đức, và là nơi có những rặng núi có thể bảo vệ nền cộng hòa khỏi bị tấn công – London và Paris đã làm tiêu tùng khả năng của Czech chống lại những đòi hỏi của Đức. Chẳng bao lâu sau đó, quân đội Đức chiếm được phần còn lại của Czechoslovakia.

Một cách khác để nhìn vào câu chuyện Biển Đông là thế này: Có phải Bắc Kinh đã lập được thành tích xâm lược rõ ràng tương tự, tiến đến bất kỳ thỏa thuận nào giữa Mỹ và Trung Quốc, bán rẻ chính phủ các nước Đông Nam Á thân thiện – một kết quả mà Washington lẽ ra phải thấy trước và tránh đi? Có thể lắm, nhưng cũng cần nhớ lại là, thậm chí ngay cả người kế nhiệm Chamberlain là Winston Churchill cũng đã rất hào phóng. Trong bài diễn văn ca tụng Chamberlain, Churchill cảnh cáo người nào có ý định phán xét một vụ việc như thỏa ước Munich “mà không tính đến hoàn cảnh ra đời của nó”. Ông ta nhận xét rằng các nhà lãnh đạo:

“Những người thiên về cảm tính thường hay tìm kiếm những giải pháp rành mạch dứt khoát để giải quyết những vấn đề phức tạp và tối tăm; những người sẵn sàng chiến đấu bất kỳ khi nào bị một thế lực ngoại quốc đe dọa; không phải bao giờ cũng đúng. Mặt khác, những người có xu hướng cúi đầu, nhẫn nại và kiên định tìm đến các thỏa hiệp hòa bình, thì không phải bao giờ cũng sai. Ngược lại, trong đa số trường hợp, họ có thể đúng, không chỉ đúng về mặt đạo đức mà còn đúng khi xét từ quan điểm thực tiễn… Biết bao nhiêu cuộc chiến tranh đã xảy ra vì những kẻ xúi giục bạo loạn!”.

Còn hơn thế nữa, trong suốt thời gian tại vị thủ tướng sau cuộc Thế chiến, Churchill vẫn tiếp tục cho rằng “đối thoại luôn tốt hơn chiến tranh”. Những lời ấy không thể là của một nhà lãnh đạo, người đã tự động bác bỏ mọi thỏa hiệp ngay cả với kẻ gây hấn tiềm năng như Hitler, Joseph Stalin hay Nikita Khrushev. Thu gọn tất cả những tranh cãi quốc tế vào một thỏa ước Munich có lẽ là sự đơn giản hóa thái quá – và sai lầm. Washington nên đối thoại, hay là đã đến lúc phải đứng lên đối đầu với Bắc Kinh, thay mặt cho chính phủ các nước Đông Nam Á thân thiện?

Thứ ba, các cường quốc phương Tây đã hy sinh lợi ích sống còn của bên thứ ba mà không hề hỏi ý kiến bên thứ ba đó. Hội nghị Munich không có sự tham dự của Tổng thống Czechoslovakia Edvard Beneš, dù nước của ông là nhân vật có quyền lợi chính yếu trong tranh chấp. Nhượng đất Sudetenland, hội nghị đã đồng thuận cao với việc phá hoại nền kinh tế, công nghiệp và tài nguyên của Czechoslovakia. Nếu bây giờ sự kiện thỏa ước Munich lặp lại, thì nghĩa là Mỹ và Trung Quốc sẽ quyết định tương lai của Biển Đông mà không hề hỏi xem chính phủ các nước Đông Nam Á có tán thành không. Nếu Obama đóng vai Chamberlain, ông ta sẽ lựa chọn một cách thiếu khôn ngoan: khuyến khích Bắc Kinh cố cưỡng ép các chính phủ châu Á phải tiếp tục nhượng bộ.

Lịch sử luôn lặp lại nhưng không hoàn toàn như cũ. Ở đây cũng vậy. Còn phải xem liệu Biển Đông – hệ thống đường biển rộng lớn nơi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và các nhân vật quyền cao chức trọng khác liên tục tuyên bố là “thuộc lợi ích quốc gia của Mỹ” – có bị Washington xếp vào hàng đối tượng thứ yếu không? Có một dấu hiệu cho thấy không phải như vậy: Chiến lược Biển 2007 của Mỹ – văn bản hướng dẫn Hải quân, Thủy quân Lục chiến và các hoạt động tuần duyên của Hoa Kỳ – trên thực tế đã nêu rõ rằng Mỹ sẽ tiếp tục là cường quốc hải quân hàng đầu ở Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương trong khoảng thời gian dự kiến được trong tương lai. Nếu Washington nghiêm túc với việc này, thì họ khó có thể xếp xó Đông Nam Á – khu vực nối giữa hai đại dương – vào vị trí “để đó tính sau”. Nói theo cách của Chamberlain, Biển Đông có lẽ là một dải đất ở xa, trong khi người Mỹ ít quan tâm tới các vấn đề (gần) của khu vực. Họ khó có thể thờ ơ đứng nhìn nó.

Liệu nhượng bộ có khiến Trung Quốc làm tới, có khiến quyền lực của họ phình to thêm trong khi hy sinh lợi ích của các nước láng giềng không? Đây là câu hỏi mấu chốt cho những người đang quan sát Trung Quốc. Giải quyết các vấn đề nảy sinh trong vùng biển kế cận Trung Quốc, gồm Biển Đông, Đài Loan, tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, và những chuyện tương tự, có thể làm Bắc Kinh hài lòng. Quả thật, những xung đột đó toàn rơi vào vùng biển ngoại vi lịch sử của Trung Quốc, nơi mà Trung Quốc cho là đường của họ. Nhưng cũng có thể sẽ có những món khai vị, như Đức Quốc xã đã từng khai vị bằng Rhineland, Áo, và Czechoslovakia. Trung Quốc sẽ no nê, thỏa mãn, hay sẽ tìm kiếm thêm các món ăn ngon miệng khác? Đây là điều còn chưa biết được.

Và cuối cùng, khó mà tin rằng Washington sẽ gạt các chính phủ Đông Nam Á ra khỏi những cuộc bàn thảo về tương lai của họ. Quả thật, lập trường truyền thống của Mỹ đối với các yêu sách về chủ quyền trên biển là không theo lập trường nào cả. Nói chung Mỹ chỉ khẳng định rằng các bên cần giải quyết mâu thuẫn mà không sử dụng bạo lực, và bất kỳ bên nào chiến thắng trong tình trạng hỗn loạn về chủ quyền và quyền tài phán trên biển thì đều phải duy trì tự do hàng hải, thể hiện qua tự do trên vùng biển và vùng trời của khu vực. Chính quyền Obama, cũng giống như chính phủ của ông Chamberlain, có thể tham gia sâu hơn vào những vụ việc ở Đông Nam Á. Nhưng nếu họ tự chỉ định mình vào vị trí phát ngôn viên cho các chính phủ Đông Nam Á thì có lẽ sẽ hơi gượng gạo.

Phép so sánh lịch sử của Thượng nghị sĩ Webb có đúng hay không thì còn tùy mắt người nhìn. Thỏa ước Munich đã đem lại một cái chuẩn tuyệt vời để ta dựa vào đó mà theo dõi quan hệ Mỹ-Trung, bất kể sự tương đồng có hoàn hảo hay không. Hơn nữa việc ông Webb nổi tiếng là người nói thẳng, nói toạc tình hình khu vực, có thể sẽ giúp cho lợi ích của nước Mỹ và khu vực. Thẳng thắn với chính mình và với bè bạn mình về các vấn đề nguy hiểm là rất quan trọng và thậm chí còn quan trọng hơn thế nữa, khi ta có những kẻ cạnh tranh tiềm tàng như Trung Quốc.

James Holmes là phụ  tá giáo sư chiến lược ở trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ. Quan điểm trong bài này là của riêng tác giả.

 The Diplomat James R. Holmes

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét