thư mục

Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

Học và thực học bắt đầu từ đâu?

Học với mục đích và khát vọng gì? Câu hỏi này có lẽ chưa bao giờ lớp người đi học tìm câu trả lời sát sao để mà có được câu trả lời thỏa đáng. Bởi sự trọng quan và trọng bằng cấp vẫn là mục đích cao nhất của phần đa người học, và nguyên do sâu xa nhất của sự trọng đó cũng chỉ là mong có được một chỗ ấm thân bằng mọi giá, chứ không phải đúng nghĩa của từ trọng.

Xưa, thời học từ chương khoa cử thì chỗ ấm thân là một chức quan nho nhỏ trong triều. Nay, với số đông vẫn là chức quan nho nhỏ “trong triều”, một suất biên chế lương ít bổng lộc nhiều hay một cái nghề đang “hot”. Trong khi đó, sự học đích thực là nuôi dưỡng sáng tạo lẫn khát vọng dân tộc, và xa hơn nữa là đóng góp cho văn minh nhân loại.
Tuy nhiên, những chỉ dấu tích cực đang có chiều hướng tăng khi số người dám dấn thân theo đuổi đam mê khoa học, hay dấn thân vào chốn thương trường. Nhưng ngay cả trong số này, mục đích của việc học cũng chỉ dừng lại ở cái mức có một mảnh bằng đỏ như một sự đảm bảo, một tờ giấy thông hành, có được mấy chân tài có thái độ học với khát vọng cống hiến khi họ bắt đầu việc học, học bằng tư duy và học với trách nhiệm làm người? Nói đến đây, chợt nhớ cái slogan của IPL (chương trình Hạt giống Lãnh đạo Doanh Nghiệp) “Nhân tài - Thực học – Sánh vai”, một ngôi trường không cấp bằng như một tuyên ngôn học không vì bằng cấp mà vì đẳng cấp. Vậy đẳng cấp mà dân IPL nói đến là gì? Liệu họ đã chạm tới khát vọng của việc học? Tôi tin là có, trong cách họ truyền lửa về những con đại bàng với khát vọng đưa doanh nghiệp Việt Nam ra biển lớn. Tất nhiên ở đây chúng ta chỉ bàn tới khát vọng, còn khả thi hay khả năng là chủ đề của những cuộc trao đổi khác.

Xuyên suốt cuốn “Khuyến học” nhà tư tưởng vĩ đại của Nhật Bản, ông Fukuzawa Yukichi đã truyền khát vọng học tập cho thanh niên, cho lớp người cả đời họ và muôn đời trước đã coi thân phận thấp hèn của mình như là sự mặc định tự nhiên. Học trước tiên để làm người độc lập, tự do. Học để hiểu mỗi cá nhân là một mắt xích trong xã hội, sự tự do độc lập ấy tức là biết vị trí của mình trong xã hội, quyền được làm người, làm một quốc dân có tinh thần dân tộc. Đó là thực học.

Tinh thần thực học đã từng được du nhập vào Việt Nam bởi phong trào Duy Tân. Vào thời kỳ này, một số trường tư thục được mở ra với mục đích khơi gợi và nuôi dưỡng việc học tập để có nghề, có nghiệp trên cơ sở thúc đẩy tự do cá nhân, khát vọng dân tộc. Nhà nghiên cứu Bùi Trân Phượng đánh giá phong trào Duy Tân “Thiết lập nền học mới vì một tương lai dân tộc Việt thoát khỏi thân phận nhược tiểu bị khinh khi, ức hiếp không phải chỉ là tâm huyết của những người mở trường và đội ngũ sư phạm, còn là sự đồng tâm của xã hội”. Dù chỉ tồn tại trong vòng 9 tháng nhưng ảnh hưởng của phong trào Duy Tân đã lan rộng đến nhiều nơi trên đất nước, như những con sóng liên tiếp nối nhau, những dư âm và hồn cốt của phong trào còn lưu lại đến ngày nay.

Học cái gì? 

Ngay từ trang đầu của “Khuyến học”, Fukuzawa Yukichi đã đưa ra câu trả lời cho việc học cái gì? Rất cụ thể, ông gọi Nho học là cách học “dẫn đến tán gia bại sản”, ông thẳng thắn và cụ thể đưa ra các môn học hữu dụng cho đời sống từ kinh tế đến đạo đức. Vậy những nội dung học mà ông đưa ra cách đây 150 năm cho xã hội Nhật Bản có còn hữu dụng ở thế giới hiện tại và xã hội Việt Nam hiện tại?

Đã ở thế kỷ 21, khi nhiều quốc gia đã bước qua giai đoạn thành công mỹ mãn của thời kì cách mạng công nghiệp, cách mạng công nghệ và tương ứng với nó là các mô hình đào tạo thực dụng, theo nghĩa chỉ đào tạo các ngành nghề mà xã hội tại thời điểm đó đang thiếu và cần.  Ngay cả với  Mỹ đã được cảnh báo về xu hướng đào tạo này (từ trước cuộc khủng hoảng kinh tế), nay trăn trở với sự phát triển bền vững trong giáo dục, quay trở lại đặt câu hỏi: liệu các môn học thuộc khoa học cơ bản, khoa học xã hội đã được quan tâm đúng mức? Nghĩa thực dụng của giáo dục khai phóng là giáo dục hướng tới mục tiêu con người tự do, con người trưởng thành có tư duy và trách nhiệm và do đó sẽ có khả năng phát triển mọi ngành nghề mà họ đam mê, chứ không chỉ dừng lại ở mục đích cung cấp các kỹ năng thực dụng cho một nghề đang thiếu tại thời điểm ngay lúc đó của nền kinh tế thị trường, như một cách gián tiếp biến con người thành nô lệ của vật chất mà không khơi gợi được đam mê của một con người tự do. Vậy với Việt nam, mặc dù chưa chạm tới sự thành công của nền công nghiệp hay công nghệ, chúng ta có nên phớt lờ các cảnh báo này? Chúng ta nên cổ súy cho nền giáo dục theo hướng thực dụng của kinh tế tiêu dùng hay thực dụng của nền giáo dục khai phóng?

Tôi ủng hộ quan điểm giáo dục khai phóng đào tạo con người tự do, có trách nhiệm. Có tự do mới khơi gợi đam mê, có đam mê mới có thành công và đóng góp, không biến mình thành nô lệ vật chất hay bất cứ hệ tư tưởng nào. Khi đã đủ trưởng thành và tự do, đủ đam mê và trách nhiệm thì một hay vài năm đủ để trang bị các kỹ năng cơ bản cho các ngành nghề và chuyên môn hẹp.

Vừa qua sự kiện Nick Vujicic đến Việt Nam đã phần nào cho thấy sự thiếu hụt niềm tin và mục đích sống của thanh niên khi những cơ thể khỏe mạnh thông qua Nick để được an ủi, được thắp lửa. Đó là hệ quả tất yếu của sự thiếu hụt mục đích học tập, khát vọng học tập. Vậy do đâu mà họ thiếu? Câu trả lời do một nền giáo dục bừa bộn đã quá rõ ràng.

Vậy thì liệu một cuộc cách mạng giáo dục có khả năng cứu vãn niềm tin và thắp sáng khát vọng này không? Và học cái gì để đạt được mục đích đó?

Theo Hannah Arendt, học là để hiểu thế giới khách quan, bao gồm cả thế giới vật chất và con người. Tôi mạn phép bổ sung, học còn là để khám phá thế giới chủ quan, khám phá cái nội tâm của mỗi con người trong chúng ta để trả lời cho câu hỏi: chúng ta là ai trong thế giới này và khát vọng sống của mỗi chúng ta là gì? Tôi dùng chữ khát vọng không chỉ gồm những khát vọng to lớn thay đổi đất nước hay trở thành một nhà tư tưởng, một nhà khoa học, khát vọng để hiểu rõ cái nội tâm, cái mục đích làm người tự do của mỗi cá nhân cũng không kém phần quan trọng, dù đó là một người làm vườn hay một chính khách.

Vậy chúng ta có đi xa quá đến thành hư vô khi bàn tới đây cả mục đích làm người hay việc thấu hiểu nội tâm? Và phạm trù này có nằm ngoài việc học gì, cụ thể là học gì trong trường phổ thông và đại học hiện nay?

Rõ ràng không cần bàn cãi rằng việc có mặt các môn học từ khoa học cơ bản, đến các môn xã hội, các môn nghệ thuật, các môn chuyên ngành hẹp là các môn thực dụng của một nền giáo dục khai phóng trong nhà trường là tất yếu và cần thiết. Nhưng chúng ta học gì ở các môn này? Việc lựa chọn giảng dạy các môn học thực dụng nhưng theo lối Nho học, một lối đọc  - ghi, hay cao hơn là truyền đạt – ghi nhớ, như một sự nhồi nhét kiến thức và hoàn toàn vắng bóng phản biện hay đối thoại ở đây (tôi muốn nói ở đây là ngay từ lớp vỡ lòng) có ích gì chăng? Tôi cho là không nhiều nếu không nói là vô ích, nhất là trong thời đại mà một chiếc điện thoại bé xíu có khả năng ghi nhớ bằng hàng trăm nghìn lần khả năng ghi nhớ kiến thức cả đời đi học của một học sinh, sinh viên trung bình. Nếu tiếp tục giảng dạy theo lối này không khác gì bình mới rượu cũ, với lối thi cử trả bài như một cách cổ súy cho cung cách học tầm chương trích cú, không tư duy, thiếu tự do.

Học và dạy như thế nào?

Từ cách đây nửa thế kỷ đã tồn tại các lý thuyết về giáo dục như: Tư tưởng giáo dục dân chủ của John Dewey, trẻ em học trong lúc chúng tự thực hành và trong lúc chúng được tự mình sống cuộc sống thực và cuộc sống diễn ra ngay hôm nay; Tâm lý giáo dục lứa tuổi của Jean Piget (Piaget’s Gennetic Epistemology) và công nghệ giáo dục của Hồ Ngọc Đại, đưa ra một cách tiếp cận giáo dục hiện đại với bậc phổ thông. Và trước đó, hồi đầu thế TK XX, bất chấp lối thi cử và sách giáo khoa lúc đó, phong trào Duy Tân ở nước ta đã chú trọng đến vai trò chủ động của người học bên cạnh người thầy vẫn là nhân tố quyết định có khả năng định hướng cho người học tại các trường tư thục. Gần đây, ở nước ta, nhóm Cánh Buồm đã tiếp thu và vận dụng các lý thuyết và kinh nghiệm này thông qua cách học “learning by doing/ học tự nghiệm”, học thông qua hệ thống các việc làm cụ thể mà giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh trong từng giờ học để học sinh được tự làm, từ đó tự học, tự giáo dục. Người thầy chỉ làm nhiệm vụ định hướng chuỗi việc làm, học sinh tự trải nghiệm, hoàn toàn phủ nhận lối giảng dạy đọc - ghi, hay truyền đạt - ghi nhớ.

Giáo dục đại học lại càng cần đến tinh thần tự chủ và tự do của thầy và trò. Nếu chúng ta tham khảo các trường học Torah của người Do Thái sẽ thấy các hội trường chật như nêm và ở đó sinh viên hào hứng say mê đối thoại, tranh luận với nhau và với thầy. Không có cách học nào hiệu quả và khai phóng như cách biến mỗi sinh viên thành một người thầy, một nhà diễn thuyết, ngay cả với những môn tưởng như không liên quan gì tới nghệ thuật tranh biện như khoa học cơ bản.

Cần mặc nhận rằng chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ, giáo dục thế giới không còn loay hoay với phương pháp dạy hay bộ sách giáo khoa nữa. Giáo dục trong thế giới phẳng đã giúp người học ngụp lặn kiếm tìm trong thế giới công nghệ, nguồn học liệu đã không biên giới, không giới hạn. Khi mà ở bất cứ đâu bạn cũng có thể tham gia một giờ học như sinh viên Harvard, khi mà một ý tưởng của bạn có thể được hàng triệu người chia sẻ, một đóng góp nhỏ của bạn cũng có thể cho hàng triệu triệu người hưởng lợi. Chẳng hạn, một thanh niên Ấn Độ khởi sự một mình với Khanacademy nay đã là một nguồn học liệu mở và phong phú cho khắp thế giới. Vậy, nếu chúng ta biết cách dạy trẻ con một cách học chủ động, biết nâng niu cái động cơ hướng thiện, hướng thượng của việc học trong mỗi đứa trẻ thì với thời đại mà chúng sống, với môi trường mà chúng đang có, chúng hoàn toàn sẽ sớm biết sử dụng và tận dụng kho báu quý giá này, và như một sự đương nhiên một đứa trẻ biết học chủ động sẽ không thể là một thanh niên thiếu mục đích sống, thiếu khát vọng sống.

Từ những cứ liệu trên, kỳ vọng rằng một cú hích cho cả thầy và trò, để bắt đầu cho một cách học chủ động, học với tư duy và trách nhiệm làm người, học với sự trung thực cao độ. Chúng ta khuyến khích học sinh đem sách vở, tài liệu vào phòng thi, thậm chí có thể kết nối internet, như một nguồn tham khảo để giảm bớt việc cần phải thuộc lòng ghi nhớ.

Fukuzawa Yukichi đã từng khuyên các bạn sinh viên cách đây 150 năm nên đọc các sách của phương Tây, và nếu đọc được bằng văn bản gốc thì càng tốt. Chắc chắn rằng, lời khuyên vẫn luôn hữu dụng cho sinh viên Việt Nam hiện tại bởi tiếp cận giá trị phương Tây đồng nghĩa với sự tiếp cận tri thức khai phóng và sáng tạo, đặc biệt, việc tiếp cận nguồn tri thức bằng ngôn ngữ của các quốc gia kiến tạo ra nó sẽ giúp sự hiểu biết sâu và rộng hơn.

Học suốt đời

Một thực trạng đã và đang diễn ra trong xã hội chúng ta là sự tự mãn của số đông khi họ đã sở hữu tấm bằng trong tay. Họ tự đóng cửa giam mình lại trong cái mớ kiến thức nghèo nàn đến bần cùng trong quá trình học thụ động, thiếu tư duy, không khát vọng, chỉ để dành được tờ giấy thông hành; và rồi khi đã bước qua cánh cửa để có một chỗ ấm thân, họ rung đùi với sự “thành công” tột bậc ấy, bao nhiêu năng lượng có được chỉ nhằm để bày mưu tính kế leo cao, cao mãi. Không mấy ai trong số họ trăn trở và rèn rũa năng lực người, phẩm cách người.

Xét ngay khu vực giáo dục công, nơi được kì vọng và mặc định cao nhất về việc học tập suốt đời. Có vị giáo sư đã đưa ra con số thống kê: chưa đến 10% giáo viên, giảng viên biên chế tiếp tục đọc sách, học tập và nâng cao trình độ chuyên môn. Đó mới chỉ là nói đến chuyên môn, một thứ tất yếu phải nâng cao, mà chưa tính đến việc học tập vô vàn các lĩnh vực khác của cuộc sống để nâng mình lên. Liệu con số trung thực về việc các giảng viên, giáo viên đọc sách ngoài chuyên môn là bao nhiêu cuốn/năm?

Khi người thầy không đọc, không học đương nhiên không kích thích được tinh thần tự học, học suốt đời của học sinh. Có hai câu chuyện nhỏ mà nỗi buồn lớn: câu chuyện thứ nhất về việc không quản được thì cấm của Bộ giáo dục (về việc in và phát hành sách tham khảo), họ có luật cấm giáo viên giới thiệu tài liệu tham khảo tới học sinh dưới bất cứ hình thức nào? Có gì khôi hài hơn luật này không?!

Câu chuyện thứ hai, với cương vị là người thầy, tôi đưa sách đến học sinh để khuyến khích thói quen đọc và đọc rộng của các em thì gặp phải lời từ chối của hơn một học sinh giỏi rằng “bố mẹ em không cho đọc gì ngoài sách giáo khoa, sách tham khảo để học các môn trên lớp”, không biết các ông bố bà mẹ đó có hiểu được sách tham khảo để học tốt, để làm người tốt không phải chỉ là những cuốn sách có gắn mác “sách tham khảo”?

Liệu có giải pháp nào để hình thành thói quen và nhu cầu học suốt đời? Chưa bao giờ việc tự học và học suốt đời lại thuận tiện như bây giờ khi mà nguồn học liệu miễn phí trở nên vô tận và phong phú đến thế. Một xã hội bình đẳng, coi trọng dân chủ, tri thức và tri thức được đánh giá đúng đắn, được trả công xứng đáng sẽ tự nó là một xã hội học tập suốt đời. Sẽ không thể có sự manh nha của xã hội học tập nếu giá trị vật chất được đặt lên tối thượng, nếu mục đích sống cao nhất của mọi thanh niên là có xe Lexus, của mọi cô gái là có túi Louis Vuitton! Vậy giải pháp duy nhất cho xã hội học tập lại quay trở về vấn đề quả trứng và con gà, chỉ khi các hệ giá trị được tạo dựng đúng đắn chúng ta mới dần tạo ra mội xã hội học tập suốt đời, và ngược lại chỉ khi xã hội học tập suốt đời chúng ta mới tạo dựng lại được hệ giá trị đúng đắn cho mọi tấng lớp trong xã hội.

Thực học sẽ làm nên giá trị và nhân cách


Kết quả thi đại học vừa qua cho thấy, có hơn 66% thủ khoa là học trường làng. Có nghĩa những học sinh toàn do tự học là chính. Nhà văn Ngô Thảo cho rằng, hiện thực này mách bảo chúng ta nên bám sát văn hóa đọc, đó vẫn luôn là bệ phóng cho kiến thức, trí tuệ bay cao, còn tất cả những thứ khác chỉ là phương tiện.

- PV: Đa phần giới trẻ hiện nay lười đọc mà thường bị lôi cuốn bởi các phương tiện nghe nhìn… Hậu quả là kiến thức tuy có tăng về lượng nhưng lại thiếu chiều sâu và kỹ năng viết, diễn đạt cũng kém đi. Theo ông nên nỗi vì đâu?
- Nhà văn Ngô Thảo: Để làm việc, anh cần có rất nhiều kỹ năng, dẫu chỉ là cuốc đất cũng phải biết cuốc thế nào, như tiếng Quảng Trị, là khi nào dùng cuốc tai, cuốc chỉa, cuốc bàn, rồi còn mai, xẻng, xà beng… Lớp trẻ bây giờ đang mắc phải căn bệnh cái gì cũng biết, biết rất nhiều nhưng khi làm lại chẳng biết làm gì cả. Nghĩa là họ thiếu sự tỉ mẩn trong từng việc làm. Chúng ta cần phải dạy lớp trẻ những điều cụ thể như là anh nông dân phải biết trồng lúa mùa nào, ngày nào, chất đất ra sao. Rằng mùa màng chỉ có bấy nhiêu ngày, ngày nào nên dùng để gieo hạt, ngày nào phải ủ mầm, thóc bao nhiêu ngày… Chứ không phải như bây giờ, ai cũng nói được nhưng mấy ai biết những thao tác để làm ra nó ra sao.

Trong học hành cũng vậy. Tất cả mọi người đều đi học nhưng lại chẳng biết để làm gì. Ai cũng muốn tốt nghiệp đại học cốt lấy cái bằng để xin việc, nhưng thực tế thì sao, thất nghiệp đầy ra đấy, bằng tốt nghiệp treo xó bếp rồi xin đi làm bất cứ việc gì, miễn có tiền để nuôi sống bản thân.. Tôi không phủ nhận những người có định hướng thời nào cũng có nhưng tiếc rằng hiện nay số đó không nhiều.

Còn việc học ở trường thì nặng về lý thuyết chung chung, một người học nông nghiệp “ném” về nông thôn nhưng chẳng biết miền Bắc khác miền Nam ra sao, cây lúa ở vùng này khác vùng khác ra sao? Hiện nay, cái mà nhiều thanh niên học được đều chỉ mơ màng nên khi vào đời không có khả năng, không có kỹ năng lao động, kỹ năng sống… Mọi thứ họ đều thấy trước mắt nhưng họ không hề có kỹ năng để thực hành những công việc cụ thể.

Để học được, từ xưa đến nay người ta đều phải đọc, nhưng đọc trên giấy và đọc trên mạng hoàn toàn khác nhau. Mấy khi đọc trên mạng mà anh có được kiến thức gì? Trong việc học người ta thường chê học thuộc lòng nhưng thực ra, nếu không học thuộc lòng, anh không có cái gì cả. Có chăng anh đừng học thuộc lòng để làm việc cũng như học thuộc lòng thôi.

Đời này đến đời khác, có ai dạy mà người ta thuộc Kiều? Cái vốn sống thuộc lòng đó là cái mình phải biết nhưng sử dụng nó thế nào lại phụ thuộc bản lĩnh ứng xử của mình. Tại sao khi cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton sang Việt Nam dẫn một câu Kiều ra nói, mình cảm thấy sung sướng? Là vì ông ta đã đụng đến một điểm nhấn của văn hóa người Việt.

- Nhưng sự thực thì các phương tiện hiện đại cũng có chức năng như đọc là giúp người ta giao tiếp?

- Phương tiện hiện đại chỉ giúp người ta giao tiếp, đọc cũng là một cách giao tiếp để anh biết thế thôi, nhưng để học, dứt khoát phải có sách vở. Ngày trước phải thức thâu đêm ngồi đọc, ghi chép những câu thơ hay nhưng chính thế hệ tưởng như học rất quê mùa như thế mới viết sách, làm được nhiều việc, chứ thế hệ đọc lướt nhiều, biết nhiều lại chưa thấy viết được gì độc đáo. Bạn nên biết, trí nhớ con người có hạn, nó chỉ được rèn luyện bằng những kỹ năng rất cụ thể.

Hiện nay, việc lớp trẻ xa rời kỹ năng đọc sẽ tạo ra một thứ văn hóa khác. Đó cũng là lý do vì sao trong Hội nghị Gặp gỡ Việt Nam gồm các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới tại Việt Nam vừa diễn ra, người ta cũng lưu ý đến giáo dục và coi trọng khoa học cơ bản. Đó là chuyện ai cũng chấp nhận, tiếp thu nhưng không ai sáng tạo. Ngay cả truyện cổ tích, khi đọc ta chỉ nghĩ nó là thứ huyễn hoặc không có thực nhưng giá trị nó mang lại là vô cùng vì có một số người đọc nó nhưng không tin là cổ tích, đã biến những điều đó thành hiện thực. Trong thế giới chúng ta đang sống hiện nay, có biết bao điều mà mới đây thôi người ta cứ nghĩ đó là chuyện hoang tưởng. Để làm điều đó, dứt khoát phải là những người có đầu óc độc lập. Phải tự suy nghĩ mà chỉ suy nghĩ và sáng tạo được khi anh tự trang bị cho mình một vốn kiến thức thâm sâu về nhiều chuyên ngành khoa học, chứ không thể chỉ lướt trên mạng. Cho đến nay, cách học quan trọng nhất vẫn thuộc về cách đọc từ sách vở và thực nghiệm trong thực tế.

- Ở các nước tiên tiến, người ta dạy con trẻ cách đọc từ khi còn nhỏ để hình thành thói quen đọc sách sớm. Chúng ta có nên học theo cách này không, thưa ông?

- Đây là phương pháp giáo dục cơ bản. Nước ngoài sau khi tiếp thu khoa học, kỹ thuật tiên tiến, trải nghiệm cái lợi và cái hại của kỹ thuật, họ giác ngộ sớm hơn mình. Nhìn tình trạng đọc của lớp trẻ ta nhận thấy đây sẽ là thảm trạng trong tương lai. Một thế hệ không chịu đọc thì sẽ làm được điều gì? Không thuộc lấy vài trăm câu ca dao, tục ngữ; vài trăm câu Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, lắng nghe những làn điệu dân ca ba miền… thì lấy đâu ra vốn văn hóa dân tộc để sáng tạo? Mà vốn dân tộc mới là chứng chỉ quan trọng khi tham gia hội nhập với quốc tế.

Bạn thử đi phỏng vấn những nhà bác học, những kỹ sư sáng tạo… hỏi xem họ từng đọc bao nhiêu cuốn sách để có thể nghĩ ra, tìm ra phát minh, sáng tạo đó. Chỉ có cách đọc thực sự mới có thể chạm vào chiều sâu, hiểu được bản chất của vấn đề. Hơn bao giờ hết, văn hóa đọc nên được nhà trường, gia đình quan tâm. Đọc ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng chứ không phải chỉ là chuyện đọc sách truyện, sách văn học. Đọc cũng là một cách tự học và chỉ có tự học, mỗi người mới hoàn thiện hơn về mọi mặt. Cùng một khóa học, nhưng chỉ cần ra trường dăm mười năm sau, ai biết tự học là vượt trội lên hẳn.

- Nhưng xã hội bây giờ đòi hỏi con người phải cập nhật thông tin nhanh nhạy mà đọc sách thì cần thời gian để hiểu và sự tập trung cao độ. Thật khó để bắt thanh niên làm việc đó, thưa ông?

- Quả thật, thanh niên bây giờ ít người nói “cần cù bù thông minh”. Trong khi thực tế có hơn 66% thủ khoa là học trường làng. Có nghĩa những thủ khoa toàn do tự “cày” về kiến thức. Chính bằng chứng này mách bảo chúng ta nên bám sát văn hóa đọc, đó vẫn luôn là bệ phóng cho trí tuệ bay cao, còn tất cả những thứ khác chỉ là phương tiện. Nếu biến phương tiện đó thành phương thức sống, với vốn kiến thức ảo đó, bạn sẽ không đi được con đường dài đến tương lai.

Không phải bỗng dưng những tỷ phú như Bill Gates không trao tài sản cho con, mà vì họ tin con họ không chỉ giỏi như họ mà còn đi xa hơn nữa. Ngược lại, mình chỉ biết bao bọc, cho con đủ mọi thứ nên nó chẳng cần lao động. Ngày nay, không ai nhắc khái niệm Tự lực cánh sinh. Giờ đây, người ta chỉ nghĩ đến việc làm thế nào tìm được con đường ngắn nhất để có nhà cao cửa rộng, tiện nghi sinh hoạt thoải mái, có của ăn của để… Mặc dầu căn cứ vào đồng lương chính thức thì không làm sao cắt nghĩa được cho minh bạch. Có nghĩa rằng, có một số người có tài sản lớn không xuất phát từ công sức lao động. Thực tiễn xã hội này là bài học méo mó cho lớp trẻ thiếu bản lĩnh, một khi họ chỉ có một mục đích sống để hưởng thụ những tiện nghi, tài sản mà cha mẹ đã nhanh chóng kiếm được. Nhưng như thế anh là ai? Là vô danh tiểu tốt, sẽ là số 0, là con giun, con dế chứ không phải con người, đã là con người phải có danh gì trong trời đất chứ.

Hơn lúc nào hết, tư tưởng sống của nhà văn Nguyễn Công Trứ cần phải được nhắc lại để lớp thanh niên thấm nhuần và học theo: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Để có danh, tất nhiên anh phải đóng góp, phải làm được gì cho cuộc sống. Hình như bây giờ không ai nghĩ vậy mà chỉ nghĩ sống, tồn tại là được. Chí lớn, tầm nhìn xa có vẻ được người trẻ coi là những từ xa xỉ hoặc của một thời đã xa!

Bây giờ những người có ý chí để làm thay đổi cuộc sống của nhiều người khác cũng không nhiều. Ví dụ như ông Trương Gia Bình của Tập đoàn FPT hay Đặng Lê Nguyên Vũ của cà phê Trung Nguyên. Đây là những con người mà xuất phát điểm chẳng có gì đặc biệt nhưng ý chí của người ta hơn người, khi có ý chí thì dứt khoát phải học, mà cụ thể là đọc để có đầy đủ mọi kỹ năng cần thiết giúp ích cho công việc. Một con người có khả năng làm thay đổi cuộc sống của nhiều người. Xã hội ngày nay đang rất cần những con người như thế.

- Vậy điều cần thiết cho lớp trẻ bây giờ chính là tạo dựng, hun đúc lại ý chí và trách nhiệm của họ?

- Ngày trước cũng chính lớp trẻ là lực lượng chủ lực giành lại độc lập cho đất nước. Ngày nay, một con người sống trong bối cảnh đất nước tự do, thanh bình, hoàn toàn có thể bình yên để sống nhờ sự tạo dựng của người khác. Nhưng để đất nước ngày một tốt đẹp hơn, rõ ràng tuổi trẻ hôm nay phải có ý chí khác. Ai cũng bảo sao ngày trước sống với nhau tốt thế, ao ước bao giờ cho đến ngày xưa, nhưng con người thời ấy khuyết tật cũng không ít. Chiến tranh cũng làm con người méo mó đi chứ. Nhưng vì họ có lý tưởng sống và luôn sẵn sàng xả thân vì nó nên mới có đất nước độc lập hôm nay.

Công bằng mà nói thì sống trong cuộc sống thanh bình như bây giờ mà gìn giữ được đường biên đạo đức là rất khó. Đó cũng là trách nhiệm của lớp trẻ. Sau chiến tranh, những người có tuổi đã thể hiện sự bất lực khi chấp nhận một xã hội thực tế không như mong đợi; lớp kế cận cũng khó có thể làm được việc gì lớn, mà hiện thực xã hội nhiều vấn nạn hiện nay là nỗi lo lớn của cả dân tộc. Nhiệm vụ của lớp trẻ hiện nay phải cùng tìm đáp số để giải quyết bài toán này. Bây giờ mình muốn bảo vệ truyền thống quý giá của một dân tộc độc lập thì phải xây dựng một dân tộc hiện đại hơn.

Những phẩm chất như cần cù lao động, sáng tạo, thông minh phải được gìn giữ và phát triển. Niềm tự hào về dân tộc phải được nuôi dưỡng. Nhưng làm mới mẻ, hiện đại hơn bằng những phẩm chất mới phù hợp với xu thế của thời đại là điều cần thường xuyên nghĩ tới. Nhiệm vụ của tuổi trẻ không phải là xây dựng tương lai theo những khuôn mẫu mà người xưa đã vẽ ra. Đến lượt mình, họ phải xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, nhân văn phù hợp với điều kiện và xu thế của thời đại. Đó là công việc rất lớn mà lớp trẻ phải đảm đương. Một công việc cần rất nhiều tâm huyết, trí tuệ, nhiệt tình của lớp trẻ.

Để làm được điều đó không còn cách nào khác mà chính các bạn phải học và tự học, tự tìm tòi sáng tạo lấy. Nếu chỉ học lý thuyết, kinh nghiệm quá khứ chung chung không thể giải quyết được những vấn đề của xã hội hiện tại. Quan trọng nhất chính là dạy cho lớp trẻ biết và có ý thức về trách nhiệm với sự phát triển của xã hội hiện nay. Điều đó không phải là mới mẻ. Hãy nhớ lại bức thư đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi học sinh cả nước trong ngày khai trường đầu tiên của chế độ mới gần 70 năm trước.

- Nhưng để buộc giới trẻ quen với công nghệ, sống nhanh, sống gấp… với thói quen thích hưởng thụ hơn là việc chịu đọc sách là một điều rất khó, thưa ông?

- Đây là trách nhiệm của nhà trường. Mỗi cá nhân sinh ra đời phải tự biết mình muốn điều gì, muốn hưởng thụ từ những thành quả của quá khứ để lại, hay tạo được dấu ấn cho riêng mình? Người cứ sống và hưởng thụ cho qua kiếp người khác với cá nhân tự tìm đường hướng cho cuộc đời, để sự hiện diện của mình phải làm cho cuộc sống khác đi, giúp nó đẹp hơn, tốt hơn. Những điều này phải được giáo dục ngay từ khi còn ở nhà trường. Giáo dục không chỉ là dạy cho học sinh biết chữ với những kiến thức bách khoa mà cần hơn là giáo dục ý thức sống có trách nhiệm với sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Chỉ cần có ý thức, lớp trẻ sẽ làm được nhiều hơn điều mà chúng ta luôn mong muốn.

- Vậy, theo ông, phải mất bao lâu nữa thì thanh niên Việt sẽ lại có thói quen đọc trở lại?

- Đừng suy nghĩ theo kiểu đồng loạt như vậy. Thời nào cũng có những bộ phận thanh niên sống có lý tưởng và lấy học tập làm phương thức chủ yếu trang bị kiến thức và kỹ năng sống và làm việc cho mình. Đối với họ, đọc và học là công việc thường xuyên và suốt đời. Ngày nay bộ phận đó cũng không phải là quá thiểu số. Mấy năm gần đây, lượng xuất bản phẩm được tiêu thụ đã có chiều hướng tăng lên. Nhưng chúng ta quan tâm đến mặt bằng của tuổi trẻ học đường, đặc biệt ở nông thôn. Điều này phải được bắt đầu từ đội ngũ giáo viên. Một người thầy chăm học, chăm đọc sẽ bằng chính tấm gương của mình, truyền tình yêu và kinh nghiệm sống đó cho học sinh của mình. Thời phổ thông, tôi có may mắn được học ở Trường cấp III Huỳnh Thúc Kháng thành phố Vinh, Nghệ An.

Điều đặc biệt là sau này, hầu hết giáo viên của chúng tôi thưở ấy đều trở thành những giảng viên có uy tín ở các trường đại học. Họ đã nêu một tấm gương để học sinh ở vùng quê đó nhiều năm trước đậu đại học đều trên 90%. Thầy và trò cùng học, cùng đọc sẽ tạo nên một thói quen, một nếp sống lâu dài cho mỗi học sinh khi vào đời. Hy vọng là trong chiến lược cải cách căn bản nền giáo dục đang được cả xã hội chú ý hiện nay, cùng với việc chọn khối lượng kiến thức hợp lý và cập nhật, việc giáo dục ý thức trách nhiệm của mỗi người và kỹ năng làm người, kỹ năng sống và lao động của mỗi người sẽ được chú ý đúng mức, đặt đúng vị trí. Khi đó việc tìm đến văn hóa đọc, kỹ năng đọc như là phương tiện để học tập suốt đời sẽ không còn phải đặt ra một cách riêng lẻ, hay một cuộc vận động mà hiệu quả thực tế không có bao nhiêu.

Riêng tôi tin, sau một thời gian cả xã hội cổ vũ và chăm chú chạy theo lối sống tôn sùng vật chất, lấy sự làm giàu cho cá nhân là mục tiêu, lấy sự hưởng thụ vật chất làm lẽ sống, sẽ tất yếu dẫn đến những hệ lụy về sự phân biệt bởi khoảng cách giàu nghèo, vô tình khôi phục lại một xã hội phân chia giai cấp, nghĩa là xa rời mục tiêu lý tưởng của cuộc cách mạng, thì bằng một cách nào đó, nhất định phải có sự điều chỉnh ở cấp vĩ mô. Quần chúng lao động đông đảo từng là đội quân chủ lực của cách mạng vẫn chưa có cuộc sống gọi là hạnh phúc đã đành, mà chúng ta đang chứng kiến hiện tượng không phải những người giàu nhất là những người hạnh phúc nhất. Đó là hậu quả của định hướng phát triển xã hội không đặt trên nền tảng văn hóa. Ngay buổi đầu dựng chế độ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Khi sự điều chỉnh này diễn ra, trước hết trong giáo dục, thì việc coi trọng văn hóa, coi trọng lối sống có văn hóa nhất định sẽ dẫn đến nếp sống, mà trong đó văn hóa đọc sẽ được coi là đương nhiên, bởi việc thực học sẽ làm nên giá trị, phẩm chất và nhân cách của con người Việt Nam trong tương lai.


THÁI LINH